Tạo động lực cho đổi mới công nghệ sạch, phát triển ngành công nghiệp môi trường
- Tại Kỳ họp thứ Mười, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường. Nghị quyết này có ý nghĩa như thế nào đối với việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về môi trường nói riêng và với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ môi trường nói chung, thưa ông?
- Nghị quyết số 247/2025/QH15 của Quốc hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và kịp thời, thể hiện quyết tâm chính trị từ cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất trong việc giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc, đồng thời đề ra định hướng phát triển bền vững đất nước.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Tạ Đình Thi
Đối với hoàn thiện chính sách, pháp luật về môi trường, Nghị quyết đóng vai trò là “kim chỉ nam”, một chương trình hành động tổng thể và có lộ trình rõ ràng. Nghị quyết không chỉ chỉ ra những bất cập, khoảng trống cần khẩn trương khắc phục, như quản lý chất thải rắn, ô nhiễm không khí, nguồn nước, mà còn cụ thể hóa thành các nhiệm vụ có tính pháp lý. Đơn cử, Nghị quyết yêu cầu sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 ngay trong năm 2025 - 2026, xây dựng Luật Biến đổi khí hậu, hoàn thiện hệ thống văn bản dưới luật với một phụ lục các văn bản cụ thể cần sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới. Điều này giúp hệ thống pháp luật trở nên đồng bộ, thống nhất, khả thi hơn, tạo hành lang pháp lý vững chắc để giải quyết các vấn đề môi trường từ gốc rễ, đồng thời góp phần thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững của nước ta.
Nghị quyết cũng khẳng định rõ ràng và mạnh mẽ quan điểm phát triển kinh tế phải gắn liền với bảo vệ môi trường, lấy bảo vệ môi trường làm nền tảng cho phát triển bền vững, đặc biệt đã nhấn mạnh yêu cầu“tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường là trung tâm xuyên suốt trong tư duy, tầm nhìn và định hướng phát triển bền vững đất nước; thống nhất trong nhận thức và hành động, coi chi cho môi trường là đầu tư cho phát triển, bảo đảm an ninh môi trường; loại bỏ quan điểm “bảo vệ môi trường sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế”.
Nghị quyết đặt ra mục tiêu cụ thể về tăng trưởng carbon thấp, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh. Việc thực hiện tốt Nghị quyết sẽ tạo động lực cho đổi mới công nghệ sạch, phát triển ngành công nghiệp môi trường, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh hội nhập và theo đuổi mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
- Xin ông chia sẻ những điểm nhấn của Nghị quyết này?
- Nghị quyết có những điểm nhấn rất đáng chú ý, thể hiện tầm nhìn và cách tiếp cận toàn diện, quyết liệt. Cụ thể, Nghị quyết không dừng ở đánh giá mà đã đề ra các nhiệm vụ, giải pháp được phân kỳ cụ thể: giải pháp đột phá, nhiệm vụ hoàn thành đến hết 2026 và định hướng đến 2030 và các năm tiếp theo. Các vấn đề cấp bách như quản lý chất thải rắn sinh hoạt, ô nhiễm không khí tại các đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, ô nhiễm sông Nhuệ - Đáy, sông Cầu... đều được chỉ đạo xử lý với mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể, có thời hạn.
Nghị quyết nhấn mạnh trách nhiệm người đứng đầu và đổi mới thể chế: Nghị quyết làm rõ việc giao chỉ tiêu cụ thể cho các địa phương gắn với đánh giá trách nhiệm của người đứng đầu. Đặc biệt, Nghị quyết đề cao nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, “người được hưởng lợi có nghĩa vụ đóng góp” và chuyển mạnh từ quản lý tiền kiểm sang hậu kiểm, phân cấp mạnh cho địa phương theo tinh thần “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”.
Nghị quyết chỉ đạo tăng dần tỷ trọng ngân sách cho môi trường, khuyến khích xã hội hóa, sử dụng công cụ tài chính xanh (trái phiếu xanh, tín dụng xanh); yêu cầu thiết lập và vận hành sàn giao dịch carbon trong nước vào năm 2026, tạo công cụ kinh tế quan trọng để kiểm soát phát thải và thúc đẩy giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.
Cùng với đó, Nghị quyết khẳng định tiếp tục phát huy vai trò giám sát tối cao của Quốc hội và vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng dân cư... Việc xây dựng hệ thống thông tin, bản đồ chất lượng môi trường công khai sẽ tạo cơ chế để người dân tham gia giám sát hiệu quả.
Mấu chốt nhất là tổ chức thực hiện
- Với vai trò cơ quan chủ trì tham mưu giám sát chuyên đề về môi trường, qua giám sát, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đã tìm hiểu, phát hiện, nhận diện rõ hơn được những vấn đề gì để phục vụ cho việc hoàn thiện thể chế, pháp luật về môi trường trong thời gian tới, thưa ông?
- Quá trình giám sát chuyên đề sâu rộng về việc thực hiện chính sách pháp luật về môi trường đã giúp nhận diện rõ hơn các tồn tại, vướng mắc, được phản ánh trung thực trong Nghị quyết.
Thứ nhất, thể chế, chính sách còn chồng chéo, hiệu lực thực thi thấp: vẫn còn khoảng trống, chồng chéo giữa các luật. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm chưa đủ mạnh để răn đe. Việc áp dụng các công cụ kinh tế như thuế, phí môi trường và nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” chưa triệt để.
Thứ hai, hạ tầng kỹ thuật lạc hậu và nguồn lực đầu tư chưa tương xứng: tình trạng quá tải, công nghệ lạc hậu tại các bãi chôn lấp rác còn phổ biến; tỷ lệ nước thải đô thị được xử lý còn rất thấp (khoảng 18%); ngân sách cho môi trường còn hạn chế, việc thu hút đầu tư tư nhân gặp nhiều rào cản.
Thứ ba, nhận thức và ý thức chấp hành chưa đồng đều: ý thức của một bộ phận doanh nghiệp, người dân và thậm chí một số cấp chính quyền còn hạn chế, vẫn còn tư tưởng “ưu tiên tăng trưởng kinh tế trước” coi bảo vệ môi trường là cản trở phát triển kinh tế.
Thứ tư, các thách thức mới nảy sinh: từ quản lý chất thải nguy hại, rác thải y tế, cho đến chất thải từ pin mặt trời, xe điện... đòi hỏi cần có chính sách và công nghệ xử lý phù hợp.
- Qua chuyên đề giám sát, ông ấn tượng nhất điều gì?
- Cá nhân tôi ấn tượng sâu sắc với tính cấp thiết và sự đồng thuận cao của Quốc hội khi quyết định thông qua Nghị quyết, bởi lẽ, vấn đề môi trường thực sự là mối quan tâm chung của cử tri và Nhân dân, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, chất lượng sống. Sự đồng thuận cao trong Quốc hội cho thấy đây là nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống chính trị.
Bài học từ thực tiễn “khủng hoảng rác” và ô nhiễm không khí thời gian qua là hồi chuông cảnh tỉnh về sự phụ thuộc vào công nghệ chôn lấp lạc hậu và thiếu tầm nhìn chiến lược. Nghị quyết đã chỉ rõ cách “chữa bệnh”: chủ động giảm phát sinh chất thải, chuyển đổi mạnh sang công nghệ tiên tiến (đốt phát điện, tái chế...), thúc đẩy phân loại rác tại nguồn, và có giải pháp tổng thể, liên ngành cho kiểm soát ô nhiễm không khí.
Tôi ấn tượng với những định hướng đột phá về chuyển đổi số trong quản lý môi trường, phát triển thị trường carbon, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và thúc đẩy kinh tế tuần hoàn. Điều này cho thấy chúng ta không chỉ giải quyết các vấn đề trước mắt mà còn đang kiến tạo nền tảng cho một nền kinh tế xanh, bền vững.
Nghị quyết đã được Quốc hội thông qua, nhưng điểm mấu chốt là tổ chức thực hiện. Thành công hay không phụ thuộc vào quyết tâm và hành động cụ thể của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và mỗi người dân. Đây vừa là trách nhiệm nặng nề, vừa là cơ hội lịch sử để chúng ta cùng nhau xây dựng một Việt Nam xanh, sạch, thịnh vượng, vì sức khỏe của chính chúng ta và các thế hệ tương lai.
- Xin cảm ơn ông!
Thanh Chi thực hiện