Từng bước thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền
Tỉnh Quảng Nam hiện có khoảng 330.400 người hiện đang sinh sống tại vùng dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN), trong đó, có 37 dân tộc thiểu số với 155.371 người, chiếm tỷ lệ 9,2% dân số toàn tỉnh. Đồng bào dân tộc thiểu số tập trung ở 6 huyện miền núi cao là Đông Giang, Tây Giang, Nam Giang, Phước Sơn, Bắc Trà My, Nam Trà My, trong đó, Tây Giang có đến 91,4%, Nam Trà My 91,1%, Đông Giang 80,2%, Phước Sơn 72,1%.
Sau khi đi thực địa khảo sát ở huyện Nam Giang, Đoàn công tác của Hội đồng Dân tộc Quốc hội đã làm việc với lãnh đạo tỉnh Quảng Nam
Quảng Nam có 157,42km đường biên giới tiếp giáp nước bạn Lào, là địa bàn xung yếu về quốc phòng, an ninh. Hiện tỉnh có số lượng huyện nghèo nhiều thứ 2 cả nước (6/6 huyện vùng cao), 58 xã và 230 thôn đặc biệt khó khăn; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều còn rất cao, gấp 10 lần tỷ lệ của cả nước và 7,55 lần tỷ lệ hộ nghèo bình quân của tỉnh.
Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Nguyễn Lâm Thành đánh giá cao kết quả thực hiện giai đoạn 1 của Chương trình của tỉnh Quảng Nam
Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo A Vô Tô Phương cho biết, toàn tỉnh có 10 dự án và 11 tiểu dự án thuộc Chương trình được triển khai thực hiện. Tổng nguồn vốn đã phân bổ của Chương trình giai đoạn 2022-2025 là 2.962.714 triệu đồng.
Kết quả giải ngân đến hết năm 2024 đối với nguồn vốn cấp là 1.638.775 triệu đồng; đạt 57,47%; vốn đầu tư là 985.576 triệu đồng, đạt 67%; vốn sự nghiệp là 653.198, đạt 48%. Ước thực hiện giải ngân đến ngày 31/12/2025 là 2.640.414 triệu đồng, đạt 93%; vốn đầu tư là 1.405.691 triệu đồng, đạt 95%; vốn sự nghiệp là 1.234.723 triệu đồng, đạt 90%. Kết quả giải ngân vốn vay là 111.125 triệu đồng, đạt 100%.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam Trần Anh Tuấn nêu một số kiến nghị với Đoàn công tác
Theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam Trần Anh Tuấn, Chương trình đã đạt được một số chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của tỉnh đề ra. Đồng bào các dân tộc thiểu số đã có nhiều thay đổi về nhận thức trong phát triển sản xuất, trong học nghề, lập nghiệp, xây dựng đời sống nông thôn mới, nâng cao ý thức gìn giữ và phát triển bản sắc văn hóa của từng dân tộc, tự thân nỗ lực vươn lên.
Từ nguồn lực đầu tư, hỗ trợ của Chương trình đã khơi dậy nguồn lực trong dân. Nhờ đó, tỉnh đã tập trung giải quyết các yêu cầu bức xúc, thiết thực của đời sống và sản xuất; từng bước giải quyết nhu cầu thiết thực cho các hộ sắp xếp, ổn định dân cư, xóa nhà tạm, chuyển đổi nghề, chuyển dịch cơ cấu sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi.
Tỉnh cũng đã tập trung nâng cao mức sống văn hóa, tinh thần, vật chất cho người dân, nhất là đẩy nhanh được tốc độ giảm hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số, bình quân mỗi năm giảm từ từ 9-10%/năm.
Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Cao Thị Xuân phát biểu tại cuộc làm việc
Cơ sở hạ tầng nông thôn miền núi thay đổi rất rõ rệt, nhất là hạ tầng giao thông nông thôn; hạ tầng, trang thiết bị trường lớp nội trú, bán trú ngày càng khang trang, bảo đảm cho việc dạy và học. Đến nay, tỉnh Quảng Nam đã bê tông hóa đường giao thông từ xã đến trung tâm huyện đạt 100%, bê tông hóa đường giao thông từ thôn đến trung tâm xã đạt 98,8%; trường học, trạm y tế xã xây dựng kiên cố đạt 100%; hộ sử dụng điện lưới quốc gia đạt 99,5%….
Các nội dung hỗ trợ thiết thực về nhà ở, nước sinh hoạt, chuyển đổi nghề giúp đời sống của đồng bào không ngừng được cải thiện: tỷ lệ hộ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 100%; tỷ lệ đồng bào DTTS tham gia bảo hiểm y tế đạt 100%; môi trường, sinh thái vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi cơ bản được đảm bảo.
Qua đó đã từng bước thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền, tạo động lực để người dân phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững, gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống.
Phân bổ vốn còn chậm so với yêu cầu
Qua khảo sát thực tế tại huyện Nam Giang, Đoàn công tác nhận thấy một số tồn tại, hạn chế như: một số dự án, tiểu dự án trùng lặp với đối tượng thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, dẫn đến tỷ lệ giải ngân thấp; một số dự án, tiểu dự án không còn đối tượng triển khai thực hiện; việc triển khai thực hiện điều chỉnh dự toán còn lúng túng, đến cuối năm mới hoàn thành việc điều chỉnh, do đó công tác giải ngân năm 2024 đạt thấp, toàn bộ số vốn năm 2024 chưa giải ngân phải chuyển sang năm 2025 thực hiện và ước giải ngân đạt 90%.
Ủy viên là ĐBQH chuyên trách tại Hội đồng Dân tộc Lưu Văn Đức phát biểu tại cuộc làm việc
Báo cáo nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nêu trên, đại diện các sở ngành tỉnh Quảng Nam cho biết do một số văn bản của các cơ quan Trung ương ban hành nhưng chưa được đồng bộ, một số nội dung chưa cụ thể, chưa phù hợp. Đến tháng 6/2023, Nghị định 38 của Chính phủ mới được ban hành và sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 27/2022/NĐ-CP ngày 19/4/2022 của Chính phủ.
Đối với Bộ Tài chính thì mỗi năm ban hành 1 Thông tư: Năm 2022 ban hành Thông tư số 15 ngày 04/3/2022; năm 2023 ban hành Thông tư số 55 ngày 15/8/2023 và đến ngày 31/10/2024 ban hành Thông tư số 75 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 55 ngày 15/8/2023 của Bộ Tài chính. Như vậy từ năm 2022-2024 Bộ Tài chính đã 3 lần ban hành Thông tư thực hiện Chương trình.
Cùng với đó, một số nội dung của Luật Đấu thầu chưa phù hợp với tình hình thực tiễn. Cụ thể, nội dung thực hiện mua sắm trên 100 triệu đồng phải thực hiện đấu thầu, với nhiều thủ tục phức tạp và đặc biệt là phải hợp đồng với đơn vị tư vấn thực hiện. Tuy nhiên, với điều kiện của các xã đặc biệt khó khăn, điều kiện xa xôi, cách trở về địa lý, địa hình, giá trị tư vấn lập hồ sơ, thủ tục mời thầu, đấu thầu rất thấp không đủ chi phí đi lại của đơn vị tư vấn. Do vậy, hầu hết nguồn vốn giao cho cấp xã làm chủ đầu tư thì việc thực hiện quy trình, thủ tục theo Luật Đấu thầu còn rất hạn chế, ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ giải ngân vốn sự nghiệp thực hiện Chương trình.
Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Nam Dương Văn Phước phát biểu tại cuộc làm việc
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam Trần Anh Tuấn nhấn mạnh, việc phân bổ vốn cho Chương trình còn chậm so với yêu cầu. Đến giữa năm 2022, Trung ương mới phân bổ kế hoạch vốn năm 2022 và cộng với kế hoạch vốn năm 2023, 2024 nên áp lực giải quyết các thủ tục giao vốn, phân bổ vốn và thủ tục đầu tư, giải ngân vốn cho các địa phương là rất lớn.
Nguồn vốn sự nghiệp ngân sách Trung ương phân bổ theo dự toán ngân sách hàng năm, không phân bổ vốn cho cả giai đoạn 2021- 2025 nên khó khăn cho địa phương trong việc lập, thẩm định, phê duyệt kế hoạch trung hạn 2021-2025 thực hiện Chương trình, nhất là các nội dung, nhiệm vụ của các dự án, tiểu dự án sử dụng vốn sự nghiệp.
Số danh mục công trình nhiều, danh mục công trình năm 2023 phải qua HĐND các cấp (huyện, xã) nên chậm; công tác chỉ đạo thực hiện của nhiều địa phương còn chậm.
Nên có chính sách đặc thù quản lý, sử dụng các nguồn vốn thuộc Chương trình
Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Cao Thị Xuân đề nghị tỉnh cập nhật những thông số cụ thể, chi tiết về chỉ tiêu của Chương trình áp dụng trên địa bàn về cơ sở hạ tầng; giảm nghèo, kinh tế, xã hội, văn hóa; mỗi năm giảm tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào DTTS bao nhiêu; việc bố trí sắp xếp và ổn định dân cư gắn với quy hoạch xây dựng nông thôn mới và đảm bảo phòng tránh thiên tai; tỷ lệ trường, lớp học vùng DTTS&MN đạt chuẩn quốc gia; tỷ lệ hộ đồng bào DTTS tham gia bảo hiểm y tế; tỷ lệ lao động qua đào tạo...
Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Nam Dương Văn Phước cho rằng, nên có chính sách đặc thù về quản lý, sử dụng các nguồn vốn thuộc Chương trình, nhất là nguồn vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư như vốn duy tu, bảo dưỡng các công trình nhằm giúp địa phương triển khai thuận lợi, kịp thời, phát huy hiệu quả sử dụng hỗ trợ từ các chương trình. Cùng với đó, cần có cơ chế quản lý tài chính, thanh quyết toán phù hợp để thúc đẩy tiến độ và đảm bảo kết quả, hiệu quả thực hiện Chương trình.
Từ thực tiễn triển khai Chương trình, tỉnh Quảng Nam kiến nghị, Quốc hội ban hành Nghị quyết về cơ chế, chính sách đặc thù cho phép chuyển nguồn và điều chỉnh dự toán chi hằng năm cho giai đoạn, thay thế Nghị quyết số 111/2024/QH15 ngày 18/01/2024; Nghị quyết số 104/2023/QH15 ngày 10/11/2023; Nghị quyết số 108/2023/QH15 ngày 29/11/2023; Nghị quyết số 174/2024/QH15 ngày 30/11/2024 của Quốc hội.
Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Quảng Nam A Vô Tô Phương báo cáo kết quả Chương trình từ 2021- 2025
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế, chính sách đặc thù về quản lý, điều hành Chương trình. Trong đó: Quy định mức chi hỗ trợ kinh phí hoạt động hằng tháng đối với Ban Chỉ đạo, Tổ giúp việc các cấp. Quy định tỷ lệ % chi phí quản lý Chương trình.
Đối với các bộ, ngành, cơ quan liên quan ở Trung ương, tỉnh đề nghị ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Chương trình trước khi phân bổ vốn cho địa phương. Trong đó, ban hành hướng dẫn thực hiện Chương trình cụ thể về nội dung, định mức, tổ chức thực hiện,... trong cùng 1 Thông tư tránh trường hợp hướng dẫn thực hiện nội dung ở thông tư này lại chỉ sang thông tư khác. Tổ chức tập huấn, hướng dẫn các văn bản cho địa phương; xây dựng phần mềm cơ sở dữ liệu quản lý Chương trình từ Trung ương đến cơ sở.
Kết thúc 2 ngày khảo sát và làm việc tại tỉnh Quảng Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Nguyễn Lâm Thành đánh giá cao việc thực hiện Chương trình của tỉnh Quảng Nam; cho biết sẽ tổng hợp đầy đủ các ý kiến, kiến nghị từ thực tiễn của tỉnh để nghiên cứu, đề xuất với Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan liên quan xử lý theo thẩm quyền.
Dương Hằng Nga