Sáng sớm, mây bảng lảng trên núi cao, bà Mùa Thị Lử – một người phụ nữ dân tộc Mông ở bản Pá Khò (Mường Nhé - Điện Biên) – cẩn thận trải tấm bản đồ vẽ tay xuống nền nhà sinh hoạt cộng đồng. Bản đồ ấy không phải về địa giới hành chính, mà là “sơ đồ sinh kế” do chính người dân trong bản vẽ nên, đánh dấu từng vị trí giếng nước, ruộng ngô, lối mòn trâu đi, khu đất dốc cần trồng cây chắn xói mòn.
Nơi đó, người dân đang từng bước làm chủ chính sách phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Người dân đang từng bước làm chủ chính sách phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Ảnh: Lê Anh Dũng
Chính sách không còn từ trên xuống mà bắt đầu từ cuộc sống
Năm 2021, Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (gọi tắt là CTMTQG 1719), theo Quyết định số 1719 của Thủ tướng Chính phủ.
Đây là chương trình chính sách tổng hợp, có quy mô lớn nhất từ trước đến nay cho vùng đặc thù, bao phủ 10 năm (2021–2030), với tinh thần xuyên suốt: lấy người dân làm trung tâm, chủ thể và động lực của quá trình phát triển.
Không còn những mô hình được áp từ trên xuống hay những công trình “trên giấy”, chương trình yêu cầu phải thực hiện tham vấn cộng đồng theo quy trình dân chủ hóa: từ xây dựng danh mục đầu tư, chọn loại sinh kế, đến giám sát triển khai. Người dân lần đầu tiên được mời ngồi vào bàn cùng chính quyền để quyết định xem mình cần gì và muốn gì.
Tại Mường Nhé, bà Lử và tổ phụ nữ bản Pá Khò chính là những người lên tiếng đầu tiên phản đối việc làm sân thể thao và nhà văn hóa trên khu đất thấp, vì đó là vùng ngập úng mùa mưa. Họ đề xuất chuyển vị trí, quy hoạch lại, và mô hình sau đó được chấp thuận.
Sự thay đổi không chỉ đơn thuần về kỹ thuật quản lý dự án mà về cả nhận thức quản trị chính sách, khi quyền lực được chia sẻ lại, và người dân thật sự trở thành chủ thể phát triển.
Một trong những điểm tiến bộ nổi bật của CTMTQG 1719 là yêu cầu thành lập các tổ giám sát cộng đồng cấp thôn, bản, buôn, phum, sóc, theo hướng dẫn tại Thông tư số 02/2022 của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, nay là Bộ Dân tộc và Tôn giáo.
Ở Gia Lai, Kon Tum hay Trà Vinh, các tổ này đã phát huy tác dụng rõ rệt. Người dân phát hiện và báo cáo sai phạm, kiến nghị thay đổi vật liệu xây dựng, điều chỉnh tiến độ công trình, giám sát việc lựa chọn hộ hưởng lợi công khai, minh bạch.
Chưa bao giờ dân được trao “quyền kiểm tra” ngay tại làng mình như vậy. Và khi “có dân theo dõi từng viên gạch”, cán bộ thi công công trình cũng cẩn trọng hơn.
Chính hình thức giám sát này đã từng bước hình thành nền tảng dân chủ ở cơ sở – một kiểu “kiểm soát quyền lực mềm” nhưng hiệu quả, thuyết phục, ít gây đối đầu.
Rào cản nào còn tồn tại?
Theo báo cáo giám sát thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia 1719 năm 2024, trong tổng số các xã miền núi được khảo sát, có 57% số xã đã thành lập tổ giám sát cộng đồng để theo dõi, kiểm tra, giám sát quá trình triển khai các dự án, tiểu dự án thuộc chương trình. Tuy nhiên, chỉ có 32% số tổ được tham gia đầy đủ các lớp tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng về giám sát đầu tư cộng đồng, quản lý tài chính, và quy trình thực hiện các hạng mục đầu tư công.
Nhiều tổ giám sát còn hoạt động mang tính hình thức, thiếu hiệu quả, chưa phát huy đúng vai trò là “tai mắt” của người dân tại cơ sở, ảnh hưởng đến tính minh bạch, dân chủ và hiệu quả của chương trình.
Thực tiễn triển khai cho thấy, việc người dân làm chủ chính sách chưa phải là phổ biến và bền vững. Ba nhóm rào cản lớn đang hiện hữu:
Một là rào cản thể chế: Một số quy định pháp luật hiện hành vẫn còn hành lang hẹp về quyền tham gia thực chất của người dân vào quá trình hoạch định chính sách. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật dù có điều khoản tham vấn nhưng thiếu chế tài thực thi hiệu quả.
Hai là rào cản hành chính: Một bộ phận cán bộ cấp cơ sở vẫn quen tư duy “ban phát”, ngại chia sẻ thông tin với dân, sợ mất quyền quyết định. Có nơi, tổ giám sát cộng đồng bị hình thức hóa, không được tập huấn kỹ năng.
Ba là rào cản nhận thức: Không ít người dân vùng sâu vùng xa vẫn mang tâm lý e ngại, “trên bảo sao nghe vậy”, chưa có niềm tin vào quyền tham gia của mình. Điều này đòi hỏi quá trình nâng cao năng lực cộng đồng phải kiên trì và có chiến lược truyền thông sâu rộng.
Dân chủ hóa chính sách từ thiết kế đến thực thi
Để “người dân làm chủ chính sách” trở thành hiện thực rộng khắp, không dừng ở khẩu hiệu, rất cần tư duy phát triển mới. Trong đó cần tập trung vào ba giải pháp cốt lõi:
Thứ nhất, pháp lý hóa quyền tham gia của người dân trong thiết kế và giám sát chính sách. Sửa đổi các luật liên quan để xác lập quyền bắt buộc tham vấn cộng đồng, đặc biệt trong các chương trình phát triển vùng đặc thù, công trình công.
Thứ hai, cải cách hành chính theo hướng “chia quyền” thay vì “ban quyền”. Xây dựng cơ chế bắt buộc công khai tài liệu chính sách ở cấp xã, mở rộng vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể trong bảo vệ quyền tham gia của người dân.
Thứ ba, tăng cường truyền thông chính sách theo hướng truyền cảm hứng, xây dựng năng lực cộng đồng. Không chỉ phổ biến chính sách, mà cần truyền cảm hứng về quyền và trách nhiệm của người dân. Mỗi chương trình cần đi kèm với tập huấn, tài liệu trực quan, mô hình điểm dễ nhân rộng.
Bài học từ CTMTQG 1719 cho thấy một sự thật giản dị mà sâu sắc: khi người dân được trao quyền – họ không chỉ tham gia, mà còn sáng tạo, bảo vệ và phát triển chính sách.
Đó cũng là tinh thần cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh”.
Ngày hôm nay, việc đưa người dân trở thành trung tâm của chính sách không còn là điều kiện lựa chọn, mà là điều kiện bắt buộc để phát triển bao trùm, phát triển bền vững.
Và chỉ khi chính sách được hình thành từ cuộc sống, từ tâm tư và nhu cầu của người dân, thì chính sách ấy mới thực sự mang sức sống dài lâu, thấm vào lòng dân, lan tỏa thành phong trào – chứ không phải chỉ là văn bản hành chính từ một cấp nào đó.
Minh Dực