Khi rừng xanh 'lên tiếng', hàng Việt khó qua cửa EU

Khi rừng xanh 'lên tiếng', hàng Việt khó qua cửa EU
2 giờ trướcBài gốc
EUDR siết lại, nông sản Việt bước vào “vùng đỏ”
Các mặt hàng bị ảnh hưởng bởi tiêu chuẩn EUDR.
Quy định chống phá rừng của EU, gọi tắt là EUDR, yêu cầu tất cả sản phẩm thuộc nhóm rủi ro phá rừng khi vào thị trường EU phải đáp ứng ba điều: không liên quan đến phá rừng sau ngày 31-12-2020; tuân thủ pháp luật nước xuất khẩu; và có tọa độ địa lý từng lô hàng. Danh mục này gồm gỗ, cao su, cà phê, cacao, dầu cọ, đậu nành và gia súc. Việt Nam có ít nhất bốn ngành nằm trong nhóm kiểm soát.
Ngành gỗ chịu tác động trực diện nhất. Xuất khẩu đồ gỗ sang EU đạt khoảng 1,2 - 1,4 tỉ đô la mỗi năm. Hiện có khoảng 80% nguyên liệu gỗ nội địa của công nghiệp gỗ trong nước đến từ rừng trồng của hơn 1,2 triệu hộ dân, nhưng chỉ 20 - 25% diện tích có chứng chỉ rừng bền vững FSC hoặc PEFC. Phần lớn hộ trồng rừng nhỏ lẻ không có hồ sơ đất, không có dữ liệu tọa độ và không có chứng nhận. EUDR yêu cầu chuỗi cung ứng phải sạch từ đầu đến cuối; chỉ cần một mắt xích rủi ro là toàn bộ lô hàng bị từ chối.
Cà phê và cao su cũng nằm trong vùng đỏ. Việt Nam có 600.000 ha cà phê, trong đó 20 - 30% nằm gần hoặc liên quan đến các khu vực đã từng chuyển đổi rừng trong 20 năm qua. Cao su có khoảng 930.000 ha, trong đó một phần lớn được trồng trên đất có lịch sử chuyển mục đích sử dụng rừng. EU chiếm 13 - 18% tổng xuất khẩu cà phê của Việt Nam và là thị trường tiêu thụ quan trọng với sản phẩm cao su công nghiệp. Dữ liệu vệ tinh châu Âu cho thấy Tây Nguyên là điểm nóng mất rừng giai đoạn 2001- 2018. Nếu doanh nghiệp không truy xuất được vùng nguyên liệu, nguy cơ bị liệt vào nhóm giám sát là rất lớn.
Thủy sản chịu rủi ro gián tiếp khi EUDR không áp dụng cho thủy sản, nhưng thức ăn thủy sản lại sử dụng nguyên liệu có rủi ro phá rừng như đậu nành và dầu cọ. Nếu chuỗi cung ứng không chứng minh được nguồn gốc nguyên liệu thì vẫn có thể bị đánh giá rủi ro cao. Với kim ngạch khoảng 1,4 tỉ đô la vào EU, mức độ rủi ro này không thể coi nhẹ.
Thách thức mới cho thép, xi măng phát thải cao
Quy định về biên giới carbon của EU, còn gọi là CBAM, lại tạo ra áp lực theo hướng khác. Quy định này áp thuế carbon đối với hàng hóa có phát thải lớn như thép, nhôm, xi măng, phân bón, hydro và điện. Nếu không giảm phát thải, doanh nghiệp sẽ phải mua tín chỉ carbon theo giá EU ETS, tức hệ thống giao dịch mua bán phát thải của châu Âu, hiện dao động 50 - 80 euro mỗi tấn CO₂, gấp 5 - 10 lần tín chỉ carbon tự nguyện. Khi chi phí carbon chiếm quá 5-7% giá trị xuất khẩu FOB (giá hàng giao tạn mạn tàu cảng Việt Nam), nhiều mặt hàng sẽ giảm khả năng cạnh tranh tại thị trường EU.
Sắp thép xuất khẩu vào EU phải vượt qua Quy định về biên giới carbon CBAM của EU không dễ. Ảnh: TL
Trong cả hai trường hợp, tín chỉ rừng trở thành công cụ quan trọng. Đối với EUDR, tín chỉ rừng giúp doanh nghiệp chứng minh đóng góp thực sự vào bảo vệ rừng, giảm rủi ro bị liệt vào nhóm phá rừng cao. Với CBAM, tín chỉ carbon rừng cho phép doanh nghiệp bù trừ phát thải ngay tại Việt Nam để giảm nghĩa vụ thuế carbon. Đồng thời, tín chỉ rừng tạo ra giá trị ESG (môi trường, xã hội, quản trị), vốn là yêu cầu ngày càng phổ biến trong chuỗi bán lẻ châu Âu. Nhiều tập đoàn đã đưa tỷ lệ hàng hóa carbon-neutral (trung hòa carbon) lên mức 25 - 40%.
Khoảng trống thể chế đe dọa chuỗi cung ứng
Việt Nam hiện gần như không có tín chỉ carbon rừng đạt chuẩn quốc tế do có quá nhiều lý do, trong đó có sáu lý do chính. Đó là chưa có chuẩn tín chỉ rừng quốc gia gọi tắt là NFS. Thứ hai, chưa ban hành LoA, tức Letter of Approval, thư chấp thuận dự án theo Điều 6 của Thỏa thuận Paris, nên tín chỉ carbon rừng đều không thể xuất khẩu, hay nói cách khác là chưa được giao dịch ở sàn EU ETS.
Hệ thống MRV (đo đạc, báo cáo, thẩm tra) chưa thống nhất, dẫn đến mỗi tỉnh làm một kiểu trong khi trên bình diện quốc gia, Việt Nam chưa có baseline, tức mức phát thải hoặc hấp thụ carbon gốc để tính lượng carbon hấp thụ tăng thêm. Hơn nữa, quyền carbon chưa được định nghĩa trong pháp luật, khiến doanh nghiệp và địa phương không biết ai thực sự là chủ thể, nói dễ hiểu là 1 người dân thuê đất của Nhà nước để trồng rừng thì tín chì carbon từ khu rừng này thuộc về Nhà nước hay nhà đầu tư trồng rừng? Cuối cùng là doanh nghiệp chưa có hệ thống đăng ký quốc gia để theo dõi tín chỉ.
Tại một tọa đàm khoa học mang tính quốc tế bàn về chính sách cho thị trường carbon cuối tháng 11 tại Hà Nội, các diễn giả trong nước và quốc tế cho biết hiện có 97 dự án carbon đăng ký trong nước nhưng chưa dự án nào có khả năng tạo ra tín chỉ carbon đủ pháp lý để xuất khẩu, càng không thể tham gia các chương trình bù trừ carbon của các hãng hàng không bay quốc tế hay đáp ứng tiêu chuẩn châu Âu.
Các ngành xuất khẩu lớn sẽ gặp khó khăn nếu khoảng trống tín chỉ rừng không được lấp đầy. Với ngành gỗ, 20 - 30% vùng nguyên liệu chưa có chứng nhận bền vững; 60 - 70% diện tích của hộ nhỏ không có dữ liệu tọa độ; 100% thiếu tín chỉ carbon rừng để chứng minh đóng góp carbon. Nguy cơ hàng bị giữ tại cảng EU và hợp đồng bị hủy là hoàn toàn có thể xảy ra.
Với cà phê, khoảng 50% diện tích ở Tây Nguyên nằm gần vùng có lịch sử chuyển đổi rừng, nói khác đi là có liên quan đến rừng trong quá khứ. Chuỗi truy xuất mới chỉ đạt 25 - 30%. Không có tín chỉ carbon rừng để chứng minh insetting carbon – tức giảm phát thải trong chuỗi giá trị, doanh nghiệp sẽ phải chấp nhận chiết khấu giá do rủi ro phá rừng.
Với cao su được EU xếp vào nhóm rủi ro phá rừng cao. Nhiều diện tích trồng mới không có dữ liệu tọa độ chuẩn. Không có tín chỉ rừng, doanh nghiệp không thể bù trừ lượng phát thải trong chế biến, khiến xuất khẩu sang EU có thể giảm 20 - 30%.
Các chuyên gia khuyến nghị, giải pháp không chỉ nằm ở doanh nghiệp mà chủ yếu ở thể chế. Việt Nam cần ba bước quan trọng, thứ nhất là xây dựng chuẩn tín chỉ rừng quốc gia NFS trong năm nay để có khung tham chiếu chung. Bước thứ hai, ban hành quy trình LoA theo Điều 6, nếu không mọi tín chỉ rừng sẽ chỉ giao dịch trong nước và không thể tiếp cận thị trường quốc tế. Bước thứ ba, chuẩn hóa MRV quốc gia bằng dữ liệu vệ tinh để chứng minh chuỗi cung ứng không phá rừng.
Khi rừng xanh "lên tiếng" thì rừng không chỉ đơn thuần là bảo vệ môi trường sinh thái, mà lại mật thiết với giao thương, tương lai của xuất khẩu trị giá 50 - 60 tỉ đô la mỗi năm vào EU của khá nhiều mặt hàng. Nếu thiếu tín chỉ carbon rừng, các ngành gỗ, cao su, cà phê, sắt thép, xi măng… sẽ đối mặt ba nguy cơ cùng lúc: bị trả hàng, bị áp thuế carbon và mất khách hàng EU.
Hồng Văn
Nguồn Saigon Times : https://thesaigontimes.vn/khi-rung-xanh-len-tieng-hang-viet-kho-qua-cua-eu/