Khi TPHCM muốn tăng tốc KCN sinh thái: đâu là 'nút thắt' khó gỡ nhất?

Khi TPHCM muốn tăng tốc KCN sinh thái: đâu là 'nút thắt' khó gỡ nhất?
2 giờ trướcBài gốc
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả thực chất đầu tiên, lộ trình này đang đối mặt với hàng loạt rào cản về công nghệ, tài chính, nguồn nhân lực và quy chuẩn, đòi hỏi cách tiếp cận chính sách mang tính nền tảng hơn.
Các diễn giả, doanh nghiệp thảo luận tại hội thảo. Ảnh: LH
Thông tin trên được ghi nhận tại hội thảo "Thúc đẩy mô hình khu công nghiệp sinh thái hướng tới phát triển kinh tế tuần hoàn và giảm phát thải carbon cho TPHCM” do Ban Quản lý các Khu chế xuất và công nghiệp TPHCM (HEPZA) và Tổ chức Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) tổ chức chiều 11-12.
Động lực mới và những kết quả bước đầu đã nhìn thấy
Bà Lê Thanh Thảo, Trưởng đại diện UNIDO Việt Nam, cho biết hội thảo diễn ra đúng thời điểm chiến lược khi TPHCM bước vào giai đoạn phát triển mới sau sáp nhập, trở thành vùng công nghiệp liên kết lớn nhất cả nước, mở ra cơ hội quy hoạch liên vùng và chuyển đổi sang mô hình công nghiệp sinh thái, thông minh, tuần hoàn và carbon thấp.
Việc hợp nhất quản lý 59 KCN - KCX với hơn 5.900 doanh nghiệp, thu hút 11 tháng hơn 5,2 tỉ đô la Mỹ vốn đầu tư, được xem là bước ngoặt của thành phố. Mô hình điều phối liên vùng chuẩn hóa chính sách, rút ngắn thủ tục, mở rộng quy hoạch theo chuỗi. Việc thống nhất còn mở đường cho các KCN tiếp cận mô hình tuần hoàn đúng nghĩa, bởi bản chất cộng sinh công nghiệp đòi hỏi dòng nguyên liệu, năng lượng phải được luân chuyển giữa nhiều ngành, nhiều khu vực.
Khung pháp lý quốc gia, gồm Nghị định 35/2022 và Thông tư 05/2025 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, được áp dụng thống nhất giúp quá trình chuyển đổi không còn phụ thuộc từng địa phương, mà được dẫn dắt theo bộ tiêu chí tiệm cận chuẩn quốc tế. Đây là nền tảng quan trọng để các địa phương chuyển đổi một cách có phương pháp, thay vì tự mày mò như giai đoạn trước đây.
TPHCM đang là nơi đi đầu khi đưa KCN Hiệp Phước vào chương trình thí điểm UNIDO - SECO (Tổng cục Kinh tế Liên bang Thụy Sĩ). Theo bà Adriana Alzate, Trưởng nhóm kỹ thuật và Điều phối dự án GEIPP (chương trình KCN sinh thái toàn cầu), Hiệp Phước đang là một trong những mô hình chuyển đổi mạnh nhất tại Việt Nam.
Dự án sử dụng hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn (RECP) tại đây đã đánh giá 31 doanh nghiệp, đề xuất hơn 300 giải pháp tiết kiệm tài nguyên, giúp giảm mỗi năm 22.845 tấn CO₂, 32.000 MWh điện, 215.000 m³ nước và mang lại lợi ích kinh tế tương đương 66 tỉ đồng.
Đáng chú ý, GEIPP đã thúc đẩy hàng loạt mô hình tái sử dụng vật liệu từ cát, bùn, gỗ đến kim loại, thạch cao, nhựa cùng các hoạt động chia sẻ dịch vụ công nghiệp. Những giải pháp này giúp giảm hơn 10 triệu kWh điện, 151.220 m³ nước và gần 6.000 tấn CO₂ mỗi năm, đồng thời tạo lợi ích kinh tế gần 1 triệu đô la.
KCN Hiệp Phước thí điểm chuyển đổi KCN sinh thái. Ảnh: TL
Các nền tảng cộng sinh công nghiệp cũng hình thành với 7 cơ hội cộng sinh và 4 mô hình cộng sinh đô thị - công nghiệp, giúp giảm hơn 72.000 tấn CO₂/năm và tạo 44 việc làm mới. Đặc biệt, mô hình cung cấp hơi nước tập trung giữa Calofic - Meizan - Nam Dương đã chứng minh lợi ích kinh tế, môi trường rõ nét, mở đường cho các mô hình chia sẻ hạ tầng năng lượng trong KCN.
Tại Bà Rịa-Vũng Tàu (cũ), KCN Phú Mỹ 3 đang hoàn thiện hệ thống đo đếm điện - nước thông minh, ứng dụng công nghệ giảm thể tích chất thải và xây dựng nền tảng đánh giá ECOIP để tiến tới công nhận KCN sinh thái. Bình Dương (cũ) cũng không đứng ngoài cuộc khi Becamex - VSIP phối hợp IFC đánh giá 5 KCN theo chuẩn KCN sinh thái toàn cầu (GEIPAC), qua đó xác định các hạng mục đầu tư xanh cần ưu tiên và các cơ hội cộng sinh công nghiệp.
Những kết quả này cho thấy chuyển đổi sang KCN sinh thái không còn nằm trên giấy. Dòng chảy đầu tư, đặc biệt FDI, cũng tạo lực đẩy lớn.
Theo ông Trần Xuân Tùng (Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Tài chính), xu hướng chuyển đổi KCN sang sinh thái được thúc đẩy bởi cam kết khí hậu và yêu cầu thị trường. Từ 2026, EU sẽ áp thuế carbon với thép, xi măng, phân bón, nhôm và điện; các FTA mới cũng siết chặt kiểm soát hóa chất, môi trường lao động và tuần hoàn vật chất, trong khi các tập đoàn quốc tế hướng tới 100% năng lượng tái tạo.
"Chuyển đổi xanh giúp KCN tiết kiệm 10-20% năng lượng, 20-30% nước, duy trì chuỗi cung ứng quốc tế và thu hút FDI chất lượng cao", ông nói.
Nhiều thách thức
Dù kết quả ban đầu tích cực, tiến trình chuyển đổi sang KCN sinh thái vẫn đang đối mặt nhiều rào cản cấu trúc. Theo ông Trần Thanh Tùng, Trưởng phòng Quản lý môi trường của HEPZA, chi phí đầu tư ban đầu cho công nghệ sạch, hạ tầng tái sử dụng tài nguyên và hệ thống quản trị vận hành là rào cản lớn nhất, đặc biệt với doanh nghiệp nhỏ. Tâm lý e ngại đầu tư do thời gian hoàn vốn dài khiến nhiều doanh nghiệp "chậm chân", dù các mô hình RECP đã chứng minh hiệu quả kinh tế rõ ràng.
Hạ tầng giao thông chưa đồng bộ làm tăng chi phí logistics và giảm sức cạnh tranh của các ngành công nghệ cao, đối tượng cốt lõi của EIP. Nguồn nhân lực có năng lực quản lý dữ liệu tài nguyên - phát thải còn hạn chế, trong khi các ưu đãi về tín dụng xanh, thuế hay đất đai vẫn ở mức định hướng, chưa tạo tín hiệu đủ mạnh để doanh nghiệp quyết định đầu tư.
Vấn đề chính sách cũng là một "điểm nghẽn". Những ưu đãi dành riêng cho KCN sinh thái hiện mới ở mức định hướng mà chưa có công cụ đủ mạnh như tín dụng xanh, ưu đãi thuế hay hỗ trợ đất đai. Khung quy chuẩn về tái sử dụng chất thải, tuần hoàn tài nguyên và tổ chức cộng sinh công nghiệp vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Như ông Christian Susan, Quản lý Chương trình KCN sinh thái của UNIDO, chỉ ra: dù nước thải tại nhiều KCN đã xử lý đạt chuẩn, việc tái sử dụng vẫn chưa được chính quyền chấp nhận rộng rãi, hạn chế khả năng tuần hoàn nước.
UNIDO cũng cảnh báo rủi ro "xanh hình thức". Nếu KCN chỉ đầu tư các hạng mục riêng lẻ mà không xây dựng cơ chế cộng sinh công nghiệp, không có bản đồ tài nguyên và không có chỉ số đánh giá định kỳ, thì mô hình KCN sinh thái sẽ không mang lại hiệu quả thực chất. "Để tránh tình trạng đó, cần khung đánh giá thống nhất và đào tạo chuyên môn sâu cho đội ngũ quản lý KCN", bà Adriana Alzate nói.
Điểm đáng chú ý là yêu cầu về "dữ liệu minh bạch" trở thành tiêu chuẩn bắt buộc. Nhiều tập đoàn quốc tế đòi hỏi báo cáo phát thải theo thời gian thực, buộc các KCN phải đầu tư hệ thống quan trắc và nền tảng dữ liệu. Đây là khoản đầu tư không nhỏ và đòi hỏi năng lực quản lý mới, trong khi nhiều khu hiện hữu vẫn sử dụng mô hình quản lý truyền thống.
Nhiều doanh nghiệp quan tâm tham gia. Ảnh: LH
Về phía nhà đầu tư hạ tầng, ông Giang Ngọc Phương, Phó Tổng Giám đốc Công ty CP KCN Hiệp Phước, cho rằng thách thức lớn hiện nay là "chuyển đổi mô hình kinh doanh". Trước đây, hạ tầng KCN chủ yếu tập trung vào tỷ lệ lấp đầy. Nhưng với mô hình KCN sinh thái, nhà đầu tư phải cung cấp thêm dịch vụ tuần hoàn tài nguyên, quản trị phát thải, điều phối cộng sinh và hỗ trợ tuân thủ ESG. Điều này đòi hỏi họ phải đầu tư thêm vốn, công nghệ và nhân lực, những khoản mà hiện chưa có cơ chế bù đắp rõ ràng.
Trước các rào cản, TPHCM xác định rõ hướng phát triển KCN sinh thái: mở rộng quy mô, hoàn thiện hạ tầng, tăng cường giám sát môi trường, đào tạo nhân lực và triển khai cơ chế hỗ trợ tài chính – kỹ thuật, giúp doanh nghiệp giảm chi phí đầu tư ban đầu. HEPZA kỳ vọng sự đồng hành của chuyên gia, tổ chức quốc tế và nhà đầu tư để rút ngắn thời gian chuyển đổi.
Nền tảng chuyển đổi đã hình thành, kết quả bước đầu khả quan, nhưng để các KCN thực sự trở thành "hệ sinh thái công nghiệp xanh" theo nghĩa đầy đủ, việc tháo gỡ các điểm nghẽn về chi phí, hạ tầng, chính sách và nguồn nhân lực vẫn là chìa khóa. Khi các yếu tố này được xử lý đồng bộ, TPHCM không chỉ đáp ứng áp lực carbon toàn cầu mà còn có thể xây dựng lợi thế cạnh tranh dài hạn trong giai đoạn dịch chuyển đầu tư mới của thế giới.
Tây Ninh ra mắt nhà xưởng 9 tầng cho thuê đầu tiên cả nước
Ảnh: DNCC
Công ty Cổ phần Long Hậu (LHC) vừa khánh thành Nhà xưởng Đa năng thế hệ mới, nhà xưởng cho thuê 9 tầng đầu tiên tại Việt Nam, tiếp nối thành công của mô hình 6 tầng trước đó.
Đây là bước tiến đột phá trong chiến lược phát triển công nghiệp hiện đại tại KCN Long Hậu, tỉnh Tây Ninh (khu vực thuộc tỉnh Long An cũ), đồng thời tối ưu hóa hiệu quả sử dụng đất công nghiệp và tạo ra không gian sản xuất thông minh, bền vững.
Theo ông Trần Hồng Sơn, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Long Hậu, việc phát triển nhà xưởng nhiều tầng là giải pháp để biến thách thức về quỹ đất hạn hẹp thành cơ hội, nâng cao năng suất trên mỗi mét vuông, đồng thời thu hút các nhà đầu tư chất lượng. Mô hình 6 tầng trước đây đã đạt tỷ lệ lấp đầy 100%, tạo tiền đề tốt cho dự án 9 tầng.
Nhà xưởng này tích hợp đầy đủ tiện ích chung như kho bãi, thang máy chuyên dụng, hệ thống cấp nước, an ninh và quản lý vận hành đồng bộ, giúp doanh nghiệp giảm chi phí đầu tư và vận hành, tập trung 100% vào sản xuất. Không gian cao tầng phù hợp cho các ngành giá trị gia tăng cao, công nghệ tiên tiến như điện tử (PCBA) và dịch vụ kiểm định chất lượng (TIC).
Nhà xưởng được thiết kế với các giải pháp kỹ thuật tiên tiến, bao gồm sàn chịu tải trọng cao, cấp nước sạch trực tiếp, hệ thống PCCC tự động và cảm biến thông minh, đảm bảo an toàn, bền vững và thân thiện môi trường.
Lê Hoàng
Nguồn Saigon Times : https://thesaigontimes.vn/khi-tphcm-muon-tang-toc-kcn-sinh-thai-dau-la-nut-that-kho-go-nhat/