Khói lam bên đồi

Khói lam bên đồi
một ngày trướcBài gốc
- Bản Pác Dâng nằm nép bên suối. Những ngôi nhà sàn gỗ dựng lưng vào đồi. Hôm ấy, gió không lớn nhưng mưa từ chiều, kéo sang khuya. Dân bản vẫn nhóm bếp, hong quần áo. Mưa rơi đều như ai gõ hạt ngô xuống mái ngói. Dường như đất thì bắt đầu thở mạnh. Khoảng hơn hai giờ sáng, một tiếng nổ như xé đá. Nguyên một mảng đồi rùng mình và trôi. Tiếng trâu rống lên rồi chó tru dài như đuổi theo một bóng tối không hình. Sau đó là tiếng đá nhỏ lăn rồi đất lún, cây ngả. Mọi thứ trượt xuống như một cơn ho dài của lòng núi. Ai đó hô to:
- Nước lũ về.
Nhưng không phải nước. Là đất, đá, thân cây già, là bếp củi chưa kịp nguội. Mặt đất rung như có sóng ngầm. Mái nhà đầu tiên bung ra như bị ai dẫm nát.
Tiếng ai kêu lên thất thanh:
- Lở núi rồi! Chạy! Chạy đi!
Lũ trẻ khóc ré lên. Phụ nữ ôm con chạy chân trần qua bùn. Đàn ông quay đầu lại, gào tên người thân nhưng chỉ thấy bụi đất như sương trắng nuốt cả lối về. Tiếng người đàn bà hét:
- Lở! Lở rồi! Nhà Páo, nhà Dìn, nhà Long bị vùi rồi!
Đám thanh niên cầm đèn pin chạy tới, chân dính bùn đến tận đầu gối. Chỗ từng là hai mái nhà giờ là đống đất đặc như đã ngủ cả trăm năm. Một người đàn ông lật vách nứa, tay trầy rách, mồm gào khản giọng:
- Páo ơi! Trả lời tao xem nào!
- Long ơi, Nặm ơi!
Không một tiếng đáp. Trên lưng đồi, cây cổ thụ bị bật gốc, tảng đá lớn lăn xuống chắn ngang dòng suối, nước trào lên như tiếng nấc bị chặn trong họng. Thêm một nhà bên khe suối biến mất. Khắp bản là tiếng gào, tiếng gọi đứt quãng. Tiếng chân đạp bùn rào rạo. Tiếng tay đào đất trần trụi, lật từng lớp nứa mục để tìm bàn tay ai còn thò lên. Long được kéo ra từ đống bùn. Anh còn thở. Người ta tìm được bé Nặm, thằng con duy nhất của Long, còn sống, nằm cạnh mẹ đã lạnh, tay nắm khư khư mảnh chăn mỏng. Một cụ già đập trán vào cột, thốt không ra tiếng. Ông Dìn gãy chân vẫn gắng lết về chỗ vợ mất tích. Miệng ông lặp đi lặp lại một câu:
- Bà Mìn đâu rồi? Bà Mìn… còn đang hong áo ngoài bếp.
Chưa đầy một tiếng sau, bộ đội của Sư đoàn đóng ở huyện đã có mặt tại Pác Dâng. Chiếc xe quân sự không thể vào bản, bộ đội phải đi bộ từ ngoài đường lớn, mang theo xẻng, cuốc, bạt, túi cứu thương. Không ai hỏi nhiều., chỉ nghe lệnh và làm. Một chiến sĩ trẻ, chân còn run vì trượt đất, dựng lều ngay dưới gốc hồi. Anh chưa biết tên người mất tích, chỉ nghe dân bản nói, dưới kia, có mấy người chưa tìm được. Khi thấy cái quần chàm ló ra khỏi bùn, cả nhóm ngừng lại. Không ai hô, chỉ lặng đi và gỡ từng vốc đất thật nhẹ nhàng. Một chiến sĩ khác dọn gọn đống củi mục, nhặt lên mảnh khung cửi gãy, lau sạch, đặt lên phiến đá.
Trời ngừng mưa, người không ngừng tìm kiếm, mắt không dám chớp vì sợ mỗi cái chớp mắt có thể bỏ lỡ một tiếng gọi cuối. Cả bản không ai nói to. Người ta đi lặng lẽ, tay bới bùn. Chó nằm phục không dám sủa. Đứa trẻ còn sống ngồi co bên đống tro ướt, mắt nhìn mãi về chỗ đất đỏ phủ lấp những ngôi nhà cũ. Khói bếp không còn, chỉ có mùi gỗ ướt, tro và bùn.
Khi mặt trời lên, những cái tên bắt đầu được viết tạm lên phiến đá bằng mẩu than ẩm. Hai người mất tích vừa tìm được là Páo và bà Mìn. Páo, chàng trai mới cưới, còn chưa kịp dựng nhà mới. Vợ Páo về giúp gặt bên ngoại nên không ở nhà. Họ tìm thấy chiếc vòng bạc đeo tay của Páo, nằm giữa lớp đất lẫn quả hồi và rơm khô. Mẹ Páo ngồi ôm chiếc khung cửi, thì thầm:
- Nó nói để cuối tuần bắt đầu đổ đất nền dựng nhà mới. Tôi bảo, làm gì mà vội, đất chưa khô, để qua rằm hãy làm. Ai ngờ, núi không chờ rằm.
Bà lần tay lên vết đất còn bám trong tóc, như thể chạm vào là lần vuốt cuối cùng. Ông Dìn ngồi một góc, khuôn mặt thất thần, ánh mắt vô hồn. Vợ ông, bà Mìn là người hay kể chuyện ma núi. Không ai thấy bà lúc sạt lở. Chiếc áo chàm bà đang hong còn vướng trên chạc cây ổi mỡ. Người trong bản bảo, mỗi khi có lễ, bà Mìn là người thắp hương đầu tiên. Bà nhớ tên tổ tiên đến năm đời, nhớ cả vị trí từng nấm mộ trên đồi.
Mấy ngày sau, nước rút, người mất đã chôn, đoàn công tác từ huyện lên. Họ mang theo bản đồ phân khu, các phương án tái định cư và cả những lời hứa gọn gàng: Khu mới cao hơn, có đường lớn, gần điểm trường, không còn nguy cơ sạt.
Trong cuộc họp bản tối ấy, có người đồng tình:
- Ở đây chết rồi. Không đi, còn đợi gì?
Có người im lặng, có người khóc. Ông Dìn, người mất vợ trong đợt sạt lở, giọng khàn khàn:
- Tôi đi cũng được. Nhưng tôi xin được lấy một nắm đất ở sân nhà cũ mang theo. Không phải để cỏ mọc, mà để nhớ chỗ từng có tiếng cười.
Sáng sớm khi sương còn chưa tan, tiếng máy xúc gầm lên ở bãi đất chuẩn bị thi công khu tái định cư mới. Theo kế hoạch, khu này sẽ thành khu dân cư kiểu mẫu, dành cho nhóm hộ đã đồng ý di dời. Không ai nghĩ gì nhiều, đất ấy tưởng đã bỏ từ lâu, chỉ là sườn dốc hoang cỏ. Nhưng chỉ sau vài gầu xúc, một công nhân dừng tay, giọng hoảng hốt:
- Có xương… xương người!
Họ lùi lại. Dưới lớp đất vừa múc là một tấm ván mục và vài mảnh vải chàm nằm bên cạnh hài cốt đã ngả màu đất. Cụ Vảng, người già nhất bản, được mời đến. Vừa nhìn thấy mảnh vải, ông run rẩy:
- Đây là mả người xưa. Hồi chiến tranh, người ta chôn tạm ở đây, không cắm bia vì sợ bị dời đi. Từ đó, không ai dám động đến.
Cả bản lặng đi. Một người phụ nữ bật khóc:
- Nhà tôi mới chuyển đồ lên đồi hôm qua. Giờ sống trên mả, làm sao mà yên?
Trưởng bản luống cuống báo huyện. Cuộc họp khẩn lại diễn ra. Người từng đồng ý chuyển giờ xin lui. Người đã ở lại thì càng chắc lòng. Hai nhóm dân bản mâu thuẫn gay gắt: Nhóm chuyển đi đã bán trâu, phá nhà, giờ không biết ở đâu. Nhóm ở lại kiên quyết không sang đất mới mà không sạch. Sau đêm họp kéo dài tới khi gà gáy, sương còn dày, lửa còn đỏ, một bà mẹ đứng lên, mắt thâm quầng nhưng nói giọng rõ ràng:
- Tôi không muốn ở chỗ đất đã trôi nhà. Cũng không dám về khu mả xưa. Nhưng tôi biết còn một bãi bằng trên lưng đồi Mò Nặm, đất khô, gió thoáng, chưa ai chôn ai.
Một ông lão gật đầu:
- Đúng. Hồi tôi còn con trai hay ngủ lại đó khi đi rừng. Đất ấy không có tên ai, nhưng mưa xuống không bị trôi. Nếu cần, tôi dẫn đường.
Không ai nói to, chỉ có những cái gật đầu. Cụ Vảng lặng lẽ nói:
- Đất ấy không gần bản cũ nhưng cách suối không xa. Vừa đủ để bọn nhỏ còn nhớ lối về nơi chôn nhau cắt rốn mà không phải sợ đất rùng mình lúc ngủ.
Trưa hôm đó, cả bản cùng đi, không chia nhóm. Họ leo lên đồi Mò Nặm. Cỏ cao quá đầu. Khi vượt qua chúng, trước mắt họ hiện ra một khoảng đất bằng phẳng lớn, hướng về thung lũng cũ. Người già thắp nén nhang cắm xuống cạnh tảng đá giữa khu đất:
- Xin thần linh, tổ tiên cho chúng con dựng bản mới. Dân bản không vì quên, mà vì muốn giữ lời sống tiếp.
Buổi chiều, khi nhóm người ở lại bản trèo lên đồi phía Tây để chọn nền đất dựng tạm chuồng trâu, họ phát hiện một khu đất trống đã bị ai đó đóng cọc, chia lô. Nghi ngờ, họ dò hỏi. Sau nhiều vòng vặn vẹo, một người thừa nhận, ông Lâu, phó trưởng bản, đã âm thầm bán lẻ một phần đất cho người ngoài vùng từ trước khi bản đồng thuận di dời.
- Đất này rừng cũ rồi, ai dùng đâu. Bán để lấy vốn dựng nhà mới, cả bản cùng hưởng mà!
Tin lan ra như lửa gặp lá khô. Người dân phẫn nộ. Nhiều hộ nghèo vốn dè dặt với việc dời bản giờ nổi giận:
- Tưởng là dời để sống. Ai ngờ có người bán đường lui từ trước.
Cụ Vảng lặng lẽ bước ra, dằn một câu:
- Bản có thể dời. Nhưng lòng người nếu bị dời vì ba đồng thì dựng nhà đâu cũng là nhà rỗng.
Ngay sau khi sự việc vỡ lở, đoàn công tác của huyện lên bản. Không chỉ có cán bộ xây dựng và phòng dân tộc mà còn có một tổ thanh tra đặc biệt đi cùng là đại diện tỉnh. Họ không đọc văn bản trước dân, chỉ mang theo một tấm bản đồ lớn vẽ lại khu vực bị “gạ mua” trái phép, kèm danh sách người đã ký tay nhận đặt cọc. Buổi họp diễn ra tại bãi đất. Trời âm u. Người đông nhưng ai cũng im lặng không phải vì sợ, mà vì tổn thương. Một cán bộ trẻ đọc ngắn gọn:
- Sau xác minh, huyện xác nhận, khu đất tái định cư số hai đã bị sử dụng sai mục đích bởi cá nhân ông Lâu. Các giao dịch không có giá trị pháp lý. Đất đó không được phép phân lô, chuyển nhượng.
Ông Lâu cúi đầu. Tóc ông bạc nhiều sau một tuần im lặng. Khi được yêu cầu phát biểu, ông không chối, chỉ nói:
- Tôi sai. Vì tưởng đất trống là đất bỏ, quên rằng đất không có người thì vẫn có ký ức.
Ngay sau đó, cán bộ tỉnh tuyên bố xử lý, thu hồi toàn bộ diện tích đã bị chia trái phép, hủy mọi hợp đồng viết tay. Còn ông Lâu bị bãi nhiệm chức phó trưởng bản, phải xin lỗi công khai trước dân. Người dân không vỗ tay. Chỉ có cụ Vảng khẽ nói:
- Bản không cần ai đền. Chỉ cần người biết cúi đầu và đất biết không bị mất tên.
Cuối cuộc họp, bé Nặm bất ngờ đứng dậy, giơ ra một tờ giấy dính bùn:
Một bức vẽ nguệch ngoạc cây hồi và một ngôi nhà nhỏ nằm bên dòng suối.
- Đây là nhà cháu vẽ. Không có ranh giới đất. Chỉ có chỗ để mé cháu còn biết đường về thăm.
Tất cả im lặng. Tiếng chim rừng phía xa vang lên da diết.
Sau buổi huyện công bố kết luận, một cuộc họp riêng của bản được mở, không loa, không biên bản, không cán bộ. Cụ Vảng trải một tấm vải chàm cũ giữa sân. Bên trên, không đặt giấy mà đặt ba hòn đá to bằng nắm tay. Ông chậm rãi nói:
- Những hòn đá này đại diện cho ba điều: Giữ đất, giữ lời, giữ lòng. Luật ngoài bản là để ai cũng biết sợ. Luật trong bản là để ai cũng thấy hổ thẹn nếu làm sai.
Họ không viết ra giấy. Chỉ có người trẻ đứng lên, đọc to từng dòng được toàn bản bàn từ trước: Mỗi nền nhà dựng mới đều do người bản đồng lòng chọn vị trí, không bán, không mua; Không ai được tự giao đất cho người ngoài nếu chưa qua bàn bạc của bản; Ai sai, không bị đánh, không bị đuổi nhưng phải mang ghế đến sân cộng đồng, ngồi yên một buổi chợ mà không nói. Người già gật. Người trẻ lặng đi. Một phụ nữ - vợ của ông Lâu bước ra, cúi đầu, nói:
- Nhà tôi sai, tôi không xin tha. Chỉ xin được ở lại, để con tôi lớn lên biết bố nó đã từng sai nhưng bản cho đứng lại.
Không ai trả lời. Chỉ có cụ Vảng nhẹ đặt viên đá thứ tư lên tấm vải chàm:
- Giữ chỗ cho biết sửa.
Sáng đầu tiên ở đồi Mò Nặm, mặt trời lên muộn nhưng không ai ngủ thêm. Người trong bản thức dậy bằng tiếng chặt tre, tiếng vỗ nứa, tiếng cuốc va vào rễ khô. Không có trống khởi công. Cụ Vảng được giao cắm cọc nền đầu tiên. Ông cầm chiếc chày gỗ truyền từ đời cha, đóng xuống đất ba nhát chậm, chắc rồi nói nhỏ:
- Nhát đầu cho trời. Nhát hai cho đất. Nhát ba cho người chưa được về.
Chỉ hai ngày sau, mười hai khung nhà được dựng xong. Dưới mái tạm, mỗi nhà đều treo lại một vật từ bản cũ mang theo: Có nhà treo khung cửi gãy, có nhà gác thanh củi cháy dở, có nhà đặt viên đá từng chèn gốc cây hồi.
Tháng Chín, trời ngừng mưa. Bầu trời xanh trở lại sau bao ngày xám đặc. Gió đầu mùa khô nhẹ, thổi qua triền đồi Mò Nặm, nơi bản mới đã lên hình. Không có lễ khai bản, không dựng rạp, không dán biểu ngữ. Ngôi nhà đầu tiên hoàn thành là của ông Dìn. Cụ Vảng cầm búa gỗ, gõ ba tiếng vào cột cái. Mỗi tiếng gõ trầm, không to, nhưng đủ để chim bay từ vách nứa rợp cánh và trẻ nhỏ chạy ra sân, reo to:
- Bản mình sống lại rồi!
Những ngôi nhà không giống nhau, nhưng mái nào cũng chừa một lỗ gió, để bếp khói có chỗ bay và mỗi sân đều đặt một viên đá nhỏ lấy từ bản cũ mang lên, không đặt theo hàng, không theo phong thủy. Chỉ để ai đi qua cũng biết, chỗ này từng có người ngồi nhớ. Khói lam bay lên lại, không mờ mịt, không u uẩn mà trong và nhẹ. Ở đồi Mò Nặm, không ai còn hỏi: Sống ở đâu thì an toàn nhất? Người ta chỉ hỏi nhau: Sống làm sao để không quên mình từng là ai?
Nguyễn Thị Quỳnh Nga
Nguồn Lạng Sơn : https://baolangson.vn/khoi-lam-ben-doi-5060619.html