Vệ sinh tay tại các cơ sở khám, chữa bệnh có thể giảm nguy cơ tử vong do nhiễm khuẩn bệnh viện. Ảnh: BV Y học cổ truyền Nghệ An
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), NKBV nằm trong số những sự cố bất lợi phổ biến nhất xảy ra trong quá trình cung cấp dịch vụ y tế. Tình trạng này xảy ra ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là hệ thống y tế của các nước phát triển và nước đang phát triển đều chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của NKBV.
NKBV hay nhiễm khuẩn liên quan đến chăm sóc y tế là vấn đề toàn cầu do làm tăng tỷ lệ mắc, tử vong, kéo dài điều trị và tăng chi phí. Một nghiên cứu NKBV tại 55 bệnh viện của 14 quốc gia trên thế giới đại diện cho các khu vực của WHO cho thấy tỉ lệ NKBV tại các nước này là 8,7%. Tỷ lệ NKBV có thể lên đến 20 - 30% ở những khoa có nguy cơ cao như: Hồi sức tích cực, ngoại khoa... Ước tính ở bất cứ thời điểm nào, cũng có hơn 1,4 triệu người bệnh trên thế giới mắc NKBV.
Tại Việt Nam, thông tin từ Bệnh viện K cho biết, kết quả điều tra NKBV tại 36 bệnh viện phía Bắc, tỉ lệ này là 7,9%. Tại Kế hoạch hành động quốc gia về kiểm soát nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh giai đoạn 2025 - 2030, Bộ Y tế đánh giá, một trong những thách thức đáng lo ngại nhất của NKBV là sự gia tăng của các vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh (gọi tắt là kháng thuốc). Ước tính hàng năm trên toàn thế giới có khoảng 136 triệu ca NKBV do vi sinh vật kháng thuốc gây ra.
Tình trạng này không chỉ làm tăng tỷ lệ tử vong, giảm hiệu quả điều trị, kéo dài thời gian điều trị, tăng chi phí chăm sóc sức khỏe mà còn làm tăng nguy cơ lây lan nhiễm khuẩn kháng thuốc trong bệnh viện và ra cộng đồng.
Việt Nam cũng đang đối mặt với tình trạng kháng thuốc gia tăng nhanh, đặc biệt trong môi trường bệnh viện. Đáng chú ý, theo thống kê sơ bộ từ hệ thống báo cáo số liệu giám sát NKBV quốc gia, các bệnh viện tuyến trung ương và tuyến tỉnh có tỷ lệ kháng thuốc cao ở một số vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết và nhiễm khuẩn tiết niệu bệnh viện.
Theo Bộ Y tế, trong những năm gần đây, các đợt bùng phát bệnh dịch và đặc biệt đại dịch Covid-19 đã khẳng định tầm quan trọng của công tác kiểm soát nhiễm khuẩn trong việc cung cấp dịch vụ y tế an toàn, chất lượng cũng như trong các hoạt động chuẩn bị và đáp ứng với tình trạng khẩn cấp y tế.
Các can thiệp về kiểm soát nhiễm khuẩn đã được chứng minh là hiệu quả, có chi phí thấp và được coi là "khoản đầu tư tốt nhất" để giảm NKBV và kháng kháng sinh trong chăm sóc y tế, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đặc biệt, vệ sinh tay và môi trường giúp giảm mạnh nguy cơ tử vong và biến chứng liên quan đến NKBV.
Tuy nhiên, các báo cáo cũng cho thấy rõ những "khoảng trống" trong chương trình kiểm soát nhiễm khuẩn ở mọi quốc gia, đặc biệt tại các nước thu nhập thấp và dưới trung bình.
Do đó, Đại hội đồng Y tế thế giới lần thứ 75 đã thông qua Nghị quyết kêu gọi các quốc gia thành viên cải thiện các chương trình kiểm soát nhiễm khuẩn ở cấp quốc gia, cấp địa phương và cấp cơ sở, phù hợp với các thành phần cốt lõi được khuyến nghị bởi WHO nhằm mục tiêu giảm bớt gánh nặng bệnh tật toàn cầu và nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe, đồng thời đối phó với những thách thức ngày càng gia tăng từ NKBV và vi khuẩn kháng thuốc.
Bộ Y tế cũng cho biết thêm, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu quan trọng trong công tác kiểm soát nhiễm khuẩn. Chính phủ và Bộ Y tế đã ban hành các quy định, chính sách phát triển công tác kiểm soát nhiễm khuẩn để chỉ đạo, định hướng và nâng cao chất lượng công tác kiểm soát nhiễm khuẩn.
Bên cạnh đó, nhiều hướng dẫn kỹ thuật quốc gia về kiểm soát nhiễm khuẩn cũng đã được ban hành và phổ biến, triển khai tập huấn rộng rãi tại các cơ sở khám chữa bệnh trong toàn quốc. Hệ thống kiểm soát nhiễm khuẩn đã được hình thành từ Bộ Y tế đến hầu hết các cơ sở khám chữa bệnh. Hệ thống giám sát NKBV quốc gia bước đầu được thiết lập tại các bệnh viện.
Tuy nhiên, Bộ Y tế cũng thừa nhận, công tác kiểm soát nhiễm khuẩn tại Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại và thách thức cần được giải quyết, đó là chưa xây dựng được các chiến lược dài hạn về phòng ngừa và kiểm soát nhiễm khuẩn đồng bộ và toàn diện.
Sự phối hợp chưa chặt chẽ giữa các cơ quan y tế, cơ quan quản lý thuốc kháng sinh, các cơ sở đào tạo y dược và các tổ chức cộng đồng tạo ra khoảng trống trong việc kiểm soát bệnh dịch và tình trạng kháng thuốc.
Hệ thống giám sát NKBV quốc gia đã được thiết lập nhưng chưa hoàn thiện. Kiểm soát nhiễm khuẩn phát triển chưa đồng đều giữa các cơ sở khám chữa bệnh. Nhiều cơ sở khám chữa bệnh chưa bố trí đủ nguồn kinh phí dành cho các hoạt động kiểm soát nhiễm khuẩn.
Tại "Kế hoạch hành động quốc gia về kiểm soát nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh giai đoạn 2025-2030", Bộ Y tế đặt mục tiêu nâng cao năng lực phòng và kiểm soát nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nhằm tăng cường chất lượng khám bệnh, chữa bệnh, bảo đảm an toàn người bệnh, nhân viên y tế và cộng đồng.
Đức Trân