Trên thế giới, trong chiến lược phát triển đô thị hiện đại, không gian công cộng không chỉ là một công trình xây dựng đơn thuần, mà còn là “hạ tầng mềm”, góp phần nâng cao chất lượng sống, sức hút, sức cạnh tranh của một khu vực, một TP; đồng thời một số không gian công cộng có thể “tự sống” với một số nguồn thu, mà không dùng tiền của Nhà nước.
Tại một số nước, chính quyền cho thuê một số khu vực tại khu công cộng, ban hành khung quản lý, còn cộng đồng trực tiếp tổ chức, khai thác ở mức phù hợp để tạo nguồn thu tái đầu tư bảo trì. Một số mô hình đã giúp không gian công cộng thành nơi có sức thu hút vốn tư nhân, kích hoạt kinh tế dịch vụ, gia tăng giá trị khu vực sống quanh đó.
Tại Việt Nam, ở một số dự án tại các đô thị lớn như Hà Nội, TP HCM, Hải Phòng, Đà Nẵng từ lâu nay cũng đã có những mô hình không gian công cộng có một số nét tương tự. Chủ đầu tư dự án dành quỹ đất lớn cho công viên công cộng, không gian ven sông… làm điểm nhấn cho mọi người đến dạo chơi, “check in” và dùng lợi nhuận từ khu dân cư, thương mại để vận hành.
Cách làm này mang lại nhiều lợi ích, giúp không gian công cộng được duy trì chất lượng lâu dài, gia tăng giá trị dự án, gia tăng giá trị thương hiệu Cty chủ đầu tư, người dân lại có địa điểm vui chơi giải trí.
Tuy nhiên, về cơ bản, không ít công viên, quảng trường, không gian mở tại các đô thị ở Việt Nam sau khi được Nhà nước đầu tư số tiền rất lớn; đã nhanh chóng xuống cấp, thiếu hoạt động, kém sức hút. Nguyên nhân không nằm ở khâu thiết kế hay xây dựng mà ở cơ chế, mô hình vận hành.
Các công trình công cộng không chỉ cần đầu tư ban đầu mà còn phát sinh chi phí bảo trì, duy tu, tổ chức hoạt động trong suốt vòng đời sử dụng. Nếu chỉ dựa vào ngân sách nhà nước, việc duy trì chất lượng cao trong dài hạn là rất khó, nhất là khi địa phương nào cũng phải phân bổ nguồn lực cho nhiều nhu cầu hạ tầng khác.
Vì vậy, theo một số ý kiến tại tọa đàm, một không gian công cộng bền vững phải có khả năng “tự sống”, nghĩa là tự tạo nguồn lực để vận hành và phát triển, thậm chí mang lại nguồn thu; chứ không nên là gánh nặng ngân sách.
Có thể khẳng định, chúng ta có rất nhiều không gian công cộng. Nhưng về mặt quy định pháp luật, đây đều là đất công, tài sản công, việc cho thuê mướn phải tuân thủ các quy định rất chặt chẽ, kín kẽ, với nhiều điều kiện ràng buộc về trách nhiệm, hạn chế về thời gian. Trong quá khứ, cũng đã từng xảy ra không ít vụ án vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước khi cho thuê mướn đất công sai quy định.
Vì vậy, mô hình xã hội hóa vận hành không gian công cộng chỉ nên được xem xét cân nhắc thí điểm nếu chúng ta có cơ chế rất rõ ràng, minh bạch và có thể kiểm soát, mục đích để tất cả cùng có lợi; trong đó hết sức lưu ý vì đây là công trình “công cộng”, nên người dân phải được ưu tiên hưởng lợi nhiều nhất.
Nguyễn Trường Giang