Không lập hợp đồng công chứng, chú bị cháu dâu 'lật kèo' mua bán đất

Không lập hợp đồng công chứng, chú bị cháu dâu 'lật kèo' mua bán đất
4 giờ trướcBài gốc
Khi hôn nhân tan vỡ…
Tòa án nhân dân Khu vực 7 (Hà Nội) vừa mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn và tranh chấp hợp đồng mua bán đất. Nguyên đơn trong vụ án là chị An Thị Phương (sinh năm 1986, trú ở xã Trung Giã, Hà Nội) và bị đơn là anh Nguyễn Ngọc Hưng (sinh năm 1983, trú cùng xã Trung Giã). Lý do ly hôn, chị Phương cho rằng mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng và bị bạo hành.
Trong vụ án ly hôn này, hai bên bố mẹ của chị Phương, anh Hưng và vợ chồng ông Nguyễn Văn Thương (chú ruột anh Hưng) được xác định là những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Quá trình giải quyết vụ án, vợ chồng ông Thương có đơn phản tố đề nghị Tòa án công nhận hợp đồng mua bán đất có hiệu lực pháp luật.
Ảnh: Minh họa.
Theo hồ sơ vụ án, trong thời kỳ hôn nhân, anh Hưng và chị Phương có 2 con chung và một số tài sản chung, trong đó có thửa đất số 160a. Tháng 12-2020, vợ chồng chị Phương chuyển nhượng thửa đất này cho vợ ông Thương với giá 1,1 tỷ đồng nhưng không lập hợp đồng tại văn phòng công chứng.
Bên bán sau đó bàn giao “sổ đỏ” và thửa đất (trên đất có ngôi nhà cấp 4) cho bên mua. Tháng 3-2022, vợ chồng ông Thương phá bỏ ngôi nhà cũ trên thửa đất 160a và xây dựng ngôi nhà 3 tầng mới trên đó, đồng thời sinh sống ổn định từ đó đến nay.
Cuối năm năm 2024, nhận thấy vợ chồng đứa cháu đứng trước nguy cơ ly hôn nên vợ chồng Thương đề nghị hai bên ra phòng công chứng thực hiện hợp đồng mua bán thửa đất nêu trên để “sang tên đổi chủ” nhưng cháu dâu bất hợp tác.
Cùng thời điểm, chị Phương cũng đơn phương gửi đơn ly hôn ra tòa. Về tài sản chung và công nợ chung, nguyên đơn xác định, hai người cùng bỏ tiền xây dựng ngôi nhà 3 tầng trên đất của bố mẹ chồng, giá trị xây dựng là hơn 2 tỷ đồng, trong đó bố mẹ anh Hưng cho 280 triệu đồng và 2 cây vàng.
Ngoài ra, trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng chị Phương nhiều lần vay tiền của mẹ chị Phương để kinh doanh, chi tiêu và trước khi có yêu cầu ly hôn, hai người còn nợ 500 triệu đồng.
Quá trình hòa giải (không thành) và ghi lời khai tại Tòa án, chị Phương xác nhận, có việc vợ chồng chị này bán đất cho vợ chồng ông Thương. Tuy nhiên, chị Phương cho rằng không đồng ý bán với giá 1,1 tỷ đồng mà phải là 1,6 tỷ đồng, theo giá thị trường.
Về số tiền 280 triệu đồng cùng 2 cây vàng là do bố mẹ chồng chị Phương cho để xây dựng nhà, không phải là tiền đóng góp chung. Đối với 500 triệu đồng, nguyên đơn xác nhận không có giấy tờ vay mượn nhưng có ghi âm cuộc nói chuyện thể hiện anh Hưng công nhận nợ bố mẹ vợ tiền.
Bất ngờ thay đổi lời khai
Tại phiên tòa, chị Phương giữ nguyên lời khai về số tiền vay mượn của mẹ đẻ và số tiền bố mẹ chồng cho để xây dựng nhà cửa. Tuy nhiên, chị này lại bất ngờ thay đổi lời khai về việc mua bán thửa đất 160a với vợ chồng ông Thương.
Nguyên đơn khai, thực chất 2 lần nhận 1,1 tỷ đồng từ vợ chồng chú thím bên chồng là tiền vay mượn, không phải là tiền mua bán đất. Hai bên không viết giấy vay nợ và cũng không thỏa thuận lãi xuất…
Từ đó, chị Phương đề nghị Tòa không chấp nhận yêu cầu công nhận hợp đồng mua bán đất giữa vợ chồng chị này và vợ chồng ông Thương. Về tài sản, nguyên đơn đòi được chia 1/2 giá trị ngôi nhà, chị Phương và anh Hưng cùng phải trả nợ 500 triệu đồng, đồng thời bác yêu cầu của bố mẹ chồng đòi lấy lại 280 triệu đồng cùng 2 cây vàng.
Về phần mình, anh Hưng khai, trị giá ngôi nhà xây dựng trên đất của bố mẹ đẻ chỉ khoảng 1,2 tỷ đồng. Tiền và vàng là do bố mẹ anh Hưng cùng đóng góp để xây dựng nhà cửa vì ông bà ở chung, không phải tiền tặng cho.
Đối với thửa đất 160a, bị đơn khẳng định, do nợ tiền ngân hàng nên tháng 12-2020, anh Hưng và chị Phương quyết định bán thửa này cho chú thím ruột với giá 1 tỷ đồng. Sau đó, chị Phương còn đòi thêm 100 triệu đồng nữa và vợ chồng ông Thương cũng đáp ứng.
Giải thích về lý do vì sao khi mua bán đất, hai bên không lập hợp đồng công chứng, anh Hưng cho biết, do là người thân, tin tưởng nhau nên chưa lập hợp đồng. Sau đấy, ảnh hưởng dịch Covid và vợ chồng ông Thương thường xuyên ở miền Nam nên việc lập hợp đồng công chứng bị đình trệ.
Đến cuối năm 2024, vợ chồng ông Thương chuyển hẳn về quê sinh sống ổn định và đề nghị hoàn tất thủ tục mua bán đất nhưng chị Phương từ chối, bất hợp tác. Về số tiền nợ mẹ vợ theo lời khai của chị Phương, anh Hưng bác bỏ vì cho rằng đó là việc của mẹ con chị Phương. Anh này không hề hay biết và cũng không được chi tiêu số tiền 500 triệu đồng mà nguyên đơn nại ra.
Với tư cách người có quyền lợi liên quan, vợ chồng ông Thương trước sau nhất quán khẳng định, vợ chồng đứa cháu đã bán thửa đất nêu trên cho mình, hoàn toàn không có chuyện vay mượn tiền bạc gì ở đây.
Khi xây dựng ngôi nhà mới trên đất, gia đình ông Thương còn phải phá bỏ ngôi nhà cũ trên đó. Ở cách nhau vài bước chân, vợ chồng chị Phương tận mắt chứng kiến quá trình xây dựng nhưng khồng hề có ý kiến phản đối. Ngay sau khi mua bán đất, vợ chồng cháu dâu còn tự tay rút “sổ đỏ” ở ngân hàng mang về giao cho vợ chồng ông.
Mở tòa xem xét vụ án ly hôn này, Tòa án nhân dân Khu vực 7 Hà Nội tuyên bố, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị An Thị Phương và buộc anh Hưng phải thanh toán cho chị Phương 650 triệu đồng là giá trị 1/2 ngôi nhà chung trên đất của bố mẹ bị đơn. Anh Hưng có toàn quyền sử dụng ngôi nhà này.
Về số tiền 500 triệu đồng do không có căn cứ là nợ chung nên anh Hưng không có nghĩa vụ phải hoàn trả. Tương tự, số tiền 280 triệu đồng và 2 cây vàng, do đây là tài sản được bố mẹ anh Hưng đã cho cả hai vợ chồng con trai nên không có căn cứ để buộc vợ chồng chị Phương phải trả lại.
Đối với thửa đất 160a, Tòa xác định đủ căn cứ cho thấy anh Hưng, chị Phương bán cho vợ chồng ông Thương và đã nhận đủ tiền. Do đó buộc nguyên đơn, bị đơn phải tiếp tục ký hợp đồng chuyển nhượng có công chứng. Trường hợp, chị Phương, anh Hưng không thực hiện thì vợ chồng ông Thương căn cứ bản án có hiệu lực pháp luật liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đăng ký quyền sử dụng hợp pháp.
Về hai con chung của nguyên đơn và bị đơn, Tòa công nhận sự thỏa thuận của hai người này là mỗi người nuôi một cháu.
*Tên những người trong bài viết đã thay đổi.
Điều 129. Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
Giao dch dân s vi phm quy định điu kin có hiu lc v hình thc thì vô hiu, tr trường hp sau đây:
1. Giao dch dân sđãđược xác lp theo quy định phi bng văn bn nhưng văn bn không đúng quy định ca lut mà mt bên hoc các bên đã thc hin ít nht hai phn ba nghĩa v trong giao dch thì theo yêu cu ca mt bên hoc các bên, Tòa án ra quyết định công nhn hiu lc ca giao dch đó.
2. Giao dch dân sđãđược xác lp bng văn bn nhưng vi phm quy định bt buc v công chng, chng thc mà mt bên hoc các bên đã thc hin ít nht hai phn ba nghĩa v trong giao dch thì theo yêu cu ca mt bên hoc các bên, Tòa án ra quyết định công nhn hiu lc ca giao dch đó. Trong trường hp này, các bên không phi thc hin vic công chng, chng thc.
Minh Long
Nguồn ANTĐ : https://anninhthudo.vn/khong-lap-hop-dong-cong-chung-chu-bi-chau-dau-lat-keo-mua-ban-dat-post626605.antd