Ảnh: minh họa
Cách đây 80 năm, tại khu rừng Trần Hưng Đạo (Cao Bằng), Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ra đời với 34 chiến sĩ vũ khí thô sơ là tiền thân của quân đội ta sau này dưới sự chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp - người anh Cả của quân đội mà mọi người thường gọi bằng cái tên trìu mến “Anh Văn". Sự ra đời của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là một tất yếu lịch sử trong sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta; là bước ngoặt trên con đường đấu tranh cách mạng của dân tộc, đáp ứng yêu cầu của phát triển cách mạng lúc đó.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử đất nước có một quân đội kiểu mới do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, một đội quân cách mạng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc chiến đấu vì mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Từ chiến công đầu Phai Khắt, Nà Ngần, tiếp theo là chiến dịch Việt Bắc, chiến dịch Biên Giới (1950) đến cuộc tổng tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, mở ra giai đoạn cách mạng mới, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm hậu phương vững chắc để tiến hành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam. Từ những chiến thắng: Ấp Bắc, Bình Giã... Từ những chiến dịch: Mậu Thân 1968, Đường 9-Nam Lào, “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” đến tổng cuộc tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử thống nhất đất nước. Và tiếp đó là hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc.
Bước chân của người chiến sĩ là điệp khúc quân hành: “Đời mình là một khúc quân hành/ Đời mình là bài ca chiến sĩ”. Khúc quân hành ấy với tư thế “Ngủ rừng trong đội hình đánh giặc” trong thơ của người lính bộ binh Nguyễn Đức Mậu. Và chúng ta bồi hồi nhớ lại những ngày đánh Pháp còn thô sơ, gian khổ, những người lính ra đi từ xóm làng thôn mạc trong thơ Chính Hữu: “Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá/ Hai chúng ta đôi người xa lạ/ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau/ Súng bên súng đầu sát bên đầu/ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ/ Đồng chí”. Hai tiếng "đồng chí" sao mà thân thương trìu mến, tri kỷ đồng điệu, đồng lòng đến thế. Đồng chí từ đồng bào chung bọc trứng mẹ Âu Cơ, từ cội nguồn dân tộc. Đồng chí có chung mẹ Việt Nam được tôn vinh: Mẹ Việt Nam anh hùng.
Vẻ đẹp của người lính trước hết là vẻ đẹp của tâm hồn và lý tưởng. Vẻ đẹp tâm hồn của người lính dưới “Bầu trời vuông” của mái trăng che võng: “Sục sôi bom lửa chiến trường/ Tâm tư yên tĩnh vẫn vuông một vùng” (Nguyễn Duy). Đó là sự tinh tế, nhạy cảm khi người lính trẻ Hoàng Nhuận Cầm nghe được tiếng chim sót lại trên đồi chốt sau trận đánh ác liệt: “Mũ tai bèo khẽ nghiêng nghiêng/ Nghe lăn lăn những tiếng chim xuống hầm”. Và thật lạc quan, tươi trẻ biết bao khi bắt gặp: “Mấy chàng lính trẻ măng tơ/ Nghêu ngao gõ bát hát chờ cơm sôi” trên đường ra trận trong thơ Tố Hữu. Hơn ai hết, người lính “Bộ đội Cụ Hồ” hiểu sâu sắc rằng: “Dù rằng đời ta thích hoa hồng/ Kẻ thù buộc ta ôm cây súng/ Ta yêu sao làng quê non nước mình/ Tình quê hương vút thành thanh âm khúc hành ca” (Diệp Minh Truyền).
Tôi lại nghĩ về chiếc mũ nan choàng lưới ngụy trang của anh Vệ quốc đoàn thời chống Pháp đến chiếc mũ tai bèo hình lá sen của anh Giải phóng quân thời chống Mỹ: “Chẳng làm đau một chiếc lá trên cành/ Sáng trên đầu như một mảnh trời xanh/ Mà xông xáo mà tung hoành ngang dọc” (Tố Hữu). Đến nay, quân đội ta được trang bị vũ khí thiết bị quân sự hiện đại. Từ tên tre, chông tre đến tên lửa, từ súng kíp, súng trường đến những cỗ pháo đại bác hạng nặng; từ xe đạp thô sơ thồ hàng lên mặt trận Biên Phủ năm xưa đến những khối xe tăng thiện chiến hiện nay; từ những con thuyền độc mộc len lỏi qua khe suối thác ghềnh đến những hạm tàu rẽ biển khơi sóng vỗ. Và trên nền trời tự do, thanh cao của Tổ quốc, những cánh én bạc mang ngôi sao vàng nghiêng cánh bảo vệ vùng trời, vùng biển thiêng liêng của đất nước. Những người lính “Bộ đội Cụ Hồ” được trang bị một tri thức quân sự hoàn hảo, mang trong mình một lý tưởng cao đẹp, một trái tim đầy nhiệt huyết. Chính đó là hạt nhân sức mạnh, là cội nguồn chiến thắng. Đó chính là “Bài ca báng súng”: “Con lớn lên viết tiếp theo cha/ Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống/ Người hôm nay viết tiếp người hôm qua” (Hoàng Trung Thông). Đó là vẹn nguyên một tình yêu lãnh mạn, bay bổng: “Đầu súng trăng treo” trong thơ Chính Hữu như là một biểu tượng cao đẹp, một khát vọng hòa bình, một niềm tin chiến thắng.
Trải qua bao lịch sử dựng nước và giữ nước, hình ảnh người lính bao giờ cũng là nhân vật trung tâm, là điểm tựa tinh thần, là niềm tự hào lớn lao của dân tộc. Khúc ca người lính chính là điệp khúc quân hành: “Vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh”; là điệp khúc: “Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi” trong “Hành quân xa” của nhạc sĩ Đỗ Nhuận. Khúc quân hành ấy trong âm vang của niềm lạc quan cộng hưởng: “Bỗng nghe vần thắng vút lên cao” của Bác Hồ kính yêu.
Hà Huy