“Chiếc phao” để tăng học phí
Nghị định 238/2025 của Chính phủ quy định rõ nguyên tắc xác định học phí cơ sở giáo dục công lập. Theo đó, với chương trình đào tạo của cơ sở giáo dục đại học (ĐH) công lập đạt mức kiểm định chất lượng chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn do Bộ GD&ĐT quy định hoặc đạt mức kiểm định chất lượng chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế hoặc tương đương, cơ sở giáo dục ĐH được tự xác định mức thu học phí của chương trình đó trên cơ sở định mức kinh tế - kĩ thuật do cơ sở giáo dục ban hành, thực hiện công khai, giải trình với người học và xã hội. Đây được xem là “phao” để các trường tăng học phí.
Từ năm 2023, các chuyên gia đã cảnh báo tình trạng, khi trường ĐH được tự quyết học phí nếu kiểm định chương trình đào tạo, sẽ tạo nên làn sóng đua nhau thực hiện kiểm định.
Trên thực tế, có nhiều trường đã tăng học phí rất cao; có những trường không mở ngành học chuẩn (ngành học đại trà) nhưng lại mở ngành chất lượng cao. Nhiều trường có những ngành học tăng học phí từ khoảng 20, 30 triệu đồng lên 60 triệu đồng. Gọi là chất lượng cao nhưng có điểm đầu vào thấp hơn chất lượng bình thường, chỉ tăng thêm một số môn học, sau khi kiểm định xong thì tăng học phí.
GS.TS Nguyễn Quý Thanh, Hiệu trưởng Trường ĐH Giáo dục, ĐH Quốc gia Hà Nội cho rằng, đang có các hiểu sai đối với kiểm định. Đầu tiên, quan niệm cho rằng, kiểm định chất lượng là thanh tra nhằm phát hiện vi phạm.
Nhưng thực tế, kiểm định nhằm đánh giá mức độ đáp ứng chuẩn và thúc đẩy cải tiến. Hai cơ chế khác nhau về mục đích, quy trình và chuẩn đánh giá. Vì hiểu sai nên trường lo bị bắt lỗi, dẫn tới giấu hoặc sửa minh chứng, đối phó, làm đẹp hồ sơ thay vì cải tiến thực chất.
“Tôi vẫn ví kiểm định chất lượng ở Việt Nam như con hổ không răng, vì những vết cắn không đau, chỉ khiến người ta buồn buồn. Bộ GD&ĐT mới có quyền dừng chương trình đào tạo. Các tổ chức kiểm định chỉ khuyến cáo”, ông Thanh nói.
Thứ hai, về kiểm định để xếp hạng, theo ông Quý Thanh, kiểm định chỉ xác định theo thang định tính 7 mức hoặc chỉ đạt/chưa đạt chuẩn, không so sánh trường với trường, không tạo bảng thứ hạng. Vì vậy, sau khi đạt kiểm định, nhiều trường tự tuyên bố “top đầu Việt Nam vì đã được kiểm định” là cách diễn giải sai.
Tiếp đến, quan niệm kiểm định quốc tế tốt hơn kiểm định trong nước. Nhưng về bản chất, quốc tế chỉ phạm vi hoạt động, không phải mức độ cao hơn. Mỗi hệ thống kiểm định có chuẩn và tiếp cận khác nhau, không thể so cao thấp.
Thất bại trong quản trị chất lượng
GS Nguyễn Quý Thanh cũng chỉ ra hệ quả của việc hiểu sai bao gồm tư duy đối phó, hình thức hóa. Nhà trường chỉ tập trung vào việc thu thập hồ sơ, minh chứng và làm đẹp báo cáo tại thời điểm kiểm định, không thực sự cải tiến chất lượng hoạt động cốt lõi, gây lãng phí thời gian và nguồn lực. Chi phí lớn đổ vào các hoạt động mang tính bề mặt (in ấn, hồ sơ, sửa chữa nhỏ lẻ gấp rút) thay vì đầu tư vào chất lượng lâu dài (đào tạo giảng viên, nghiên cứu khoa học), làm tăng gánh nặng tài chính không cần thiết.
Việc kiểm định chất lượng được coi là áp lực, gây lo lắng và phản kháng trong đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhân viên, làm xói mòn văn hóa chất lượng nội bộ. Điều lo lắng nhất của ông Thanh khi đánh giá sai lệch kết quả.
Nếu các tiêu chí kiểm định chất lượng quá tập trung vào số liệu đầu vào (ví dụ: số bài báo, số giờ giảng) mà bỏ qua chất lượng thực tế của hoạt động giảng dạy và nghiên cứu, có thể dẫn đến sai lệch mục tiêu học thuật.
Sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội trong giờ học lí thuyết. Ảnh: HOA BAN
Sau khi đạt chứng nhận, nhà trường có thể nảy sinh tâm lí hoàn thành nhiệm vụ, dừng lại việc đảm bảo chất lượng liên tục cho đến đợt kiểm định tiếp theo. Đây là thất bại lớn nhất của quản trị chất lượng.
Ông Thanh cho biết, một hệ quả nữa là dữ liệu giả mạo hoặc sai. Vì áp lực kiểm định, có thể xảy ra trường hợp các đơn vị báo cáo dữ liệu bị làm đẹp hoặc không phản ánh đúng thực tế, dẫn đến ban lãnh đạo ra quyết định sai lầm vì dựa trên thông tin không chính xác.
Ban lãnh đạo không thể chuyển các khuyến nghị này thành các mục tiêu chiến lược cụ thể và kế hoạch hành động khả thi, dẫn đến sự trì hoãn và mơ hồ trong công tác cải tổ. Nhà trường có thể bị buộc phải ưu tiên các dự án quá tốn kém, không thực tế hoặc không mang lại giá trị gia tăng cốt lõi (ví dụ, tập trung xây dựng cơ sở vật chất không cần thiết) trong khi lơ là đầu tư vào con người và công nghệ.
Theo Cục Quản lí Chất lượng, Bộ GD&ĐT, đến ngày 30/11, cả nước có trên 2.200 chương trình đào tạo đại học được kiểm định đạt tiêu chuẩn trong nước; 721 chương trình đào tạo được kiểm định theo tiêu chuẩn nước ngoài.
Những hiểu sai đồng thời tác động tới đoàn đánh giá khi đưa ra quyết định sai lệch. Nếu khuyến nghị dựa trên sự hiểu sai lệch về dữ liệu nội bộ (do đoàn đánh giá thiếu chuyên môn), ban lãnh đạo có thể bị định hướng sai trong việc sửa chữa vấn đề. Ví dụ, tập trung thay đổi chương trình đào tạo trong khi vấn đề thực sự nằm ở quản lý giảng viên.
TS Nguyễn Thị Kim Phụng, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục ĐH, Bộ GD&ĐT nhìn nhận, việc xây dựng cơ chế bảo đảm chất lượng bên trong là yếu tố quan trọng, nhưng kiểm định chất lượng giáo dục sẽ giúp các chương trình đào tạo nhận được đánh giá khách quan từ bên ngoài, nhận được các kinh nghiệm tư vấn từ các chuyên gia đã tích lũy và cập nhật nhiều kiến thức, kinh nghiệm chuyên sâu để ngày càng hoàn thiện.
Từ đó, nhà trường không chỉ cung cấp cho người học chương trình đào tạo trên cơ sở những gì nhà trường có mà còn cung cấp những gì thị trường lao động cần, đáp ứng xu hướng phát triển… Quan trọng nhất là xây dựng văn hóa chất lượng, liên tục cải tiến trong tất cả các hoạt động.
Nghiêm Huê