Bộ Nông nghiệp và Môi trường siết kiểm soát chất lượng sầu riêng tươi xuất khẩu. Ảnh. KA
Đưa sầu riêng trở lại “đỉnh cao”
Số liệu thống kê chính thức về kết quả xuất khẩu sầu riêng 7 tháng đầu năm 2025 hiện vẫn chưa được công bố. Thế nhưng, Hiệp hội rau quả Việt Nam (Vinafruit) dự báo loại trái cây “vua” này có khả năng mang về cho Việt Nam khoảng 1 tỉ đô la Mỹ trong 7 tháng đầu năm.
Trong khi đó, năm ngoái sầu riêng mang về cho Việt Nam khoảng 3,3 tỉ đô la Mỹ kim ngạch xuất khẩu. Điều này có nghĩa, 5 tháng còn lại của năm 2025, sầu riêng phải mang về cho Việt Nam thêm 2,3 tỉ đô la Mỹ để duy trì mức kim ngạch xuất khẩu ngang bằng năm ngoái.
Kết quả cuối cùng dĩ nhiên phải chờ câu trả lời, nhưng từ đầu năm đến nay, có một thực tế đã xảy ra, đó là ngành sầu riêng thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng bị thị trường tiêu thụ lớn nhất là Trung Quốc “siết” quản lý về mặt chất lượng, nhất là chỉ tiêu Cadimi và Vàng O.
Trước thực trạng nêu trên, Bộ Nông nghiệp và Môi trường mới đây đã ban hành Quyết định số 3015/QĐ-BNNMT về “quy trình kiểm soát an toàn thực phẩm đối với trái sầu riêng tươi xuất khẩu”.
Việc Bộ Nông nghiệp và Môi trường ban hành quyết định nêu trên là cần thiết để sầu riêng Việt Nam đạt chất lượng an toàn thực phẩm. Qua đó, cả chuỗi giá trị ngành hàng lấy lại “phong độ” khi xuất khẩu, nhất là ở Trung Quốc- thị trường chiếm đến 97,2% tổng kim ngạch xuất khẩu trong năm ngoái.
Theo đó, quyết định nêu trên đã quy định rất rõ về (I) cơ sở trồng trọt, vùng trồng; (II) bảo quản, vận chuyển đến cơ sở đóng gói; (III) cơ sở đóng gói; (IV) thương nhân thương mại; (V) cơ sở kiểm nghiệm; (VI) sản phẩm sầu riêng tươi xuất khẩu; (VII) kiểm tra, chứng nhận an toàn thực phẩm đối với sản phẩm sầu riêng tươi xuất khẩu và (VIII) trách nhiệm và quyền hạn.
Chẳng hạn, đối với yêu cầu "bảo quản, vận chuyển đến cơ sở đóng gói", quy trình yêu cầu: (1) đáp ứng yêu cầu về điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm quy định tại điều 20, 21 Luật an toàn thực phẩm (*)
(2) Đáp ứng yêu cầu về truy xuất nguồn gốc và thu hồi, xử lý sản phẩm không bảo đảm an toàn theo quy định tại thông tư số 17/2021/TT- BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường- PV) về truy xuất nguồn gốc, thu hồi và xử lý thực phẩm không bảo đảm an toàn thuộc phạm vi quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
(3) Cơ sở đóng gói sầu riêng tươi xuất khẩu có trách nhiệm kiểm tra và giám sát quá trình bảo quản, vận chuyển sầu riêng đảm bảo tuân thủ theo các yêu cầu nêu tại khoản 1, khoản 2 mục III quy trình này (tức khoản 1 và 2 nêu ở trên- PV)
Ngoài yêu cầu tuân thủ về “bảo quản, vận chuyển đến cơ sở đóng gói”, quy trình cũng đã hướng dẫn việc tuân thủ rất rõ ràng đối với những nội dung khác, bao gồm “cơ sở trồng trọt, vùng trồng”; “cơ sở đóng gói”; “thương nhân thương mại”; “cơ sở kiểm nghiệm”…
Với quy trình vừa được Bộ Nông nghiệp và Môi trường ban hành rõ ràng là cơ sở để các bên tham gia chuỗi sản xuất, vận chuyển, kiểm nghiệm, kinh doanh xuất khẩu sầu riêng tuân thủ. Đây là cơ sở để trái cây “vua” của Việt Nam quay trở lại thời kỳ đỉnh cao, thậm chí bứt phá trong tương lai...
Muốn sầu riêng đạt chất lượng, vấn đề vẫn là phải thực thi nghiêm túc các quy định. Ảnh: KA
Hậu quả khi "xem nhẹ" tuân thủ
Tuy nhiên, có một vấn đề cần phải khẳng định, đó là những yêu cầu tuân thủ trong quy trình nêu trên vừa được Bộ Nông nghiệp và Môi trường ban hành không phải là những yêu cầu mới hay xa lạ, mà đã được quy định trong các thông tư và Luật ban hành từ trước.
Cụ thể, quy định với cơ sở trồng trọt, quy trình mới ban hành yêu cầu (1) đáp ứng yêu cầu về điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm quy định tại khoản 1 điều 23 Luật an toàn thực phẩm (Luật này đã được ban hành từ ngày 17-6-2010)
(2) đáp ứng yêu cầu về truy xuất nguồn gốc và thu hồi, xử lý sản phẩm không bảo đảm an toàn theo quy định tại thông tư số 17/2021/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về truy xuất nguồn gốc, thu hồi và xử lý thực phẩm không bảo đảm an toàn thuộc phạm vi quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (thông tư ban hành từ ngày 20-12-2021).
Tại hội thảo “giải pháp phát triển ngành hàng sầu riêng đạt chất lượng xuất khẩu” diễn ra mới đây ở thành phố Cần Thơ, ông Võ Thành Tâm Phúc, Trưởng phòng phát triển thị trường của Trung tâm chất lượng, chế biến và phát triển thị trường vùng 6 (Cục chất lượng, chế biến và phát triển thị trường thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho biết việc sản xuất, kinh doanh xuất khẩu sầu riêng không chỉ Việt Nam, mà ngay cả nghị định thư xuất khẩu sầu riêng Việt Nam sang Trung Quốc cũng có những quy định chặt chẽ.
Theo ông Phúc, về truy xuất nguồn gốc, Việt Nam có quy định tại thông tư 17 năm 2021 và Luật an toàn thực phẩm năm 2010. “Rõ ràng, khi sản xuất thực phẩm nói chung và sầu riêng nói riêng chúng ta phải thực hiện truy xuất nguồn gốc”, ông nhấn mạnh và cho biết, với cơ sở đóng gói yêu cầu truy xuất nguồn gốc cũng có, thậm chí nghiêm ngặt hơn.
Trong khi đó, nghị định thư xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc cũng yêu cầu vấn đề truy xuất nguồn gốc. “Rõ ràng, chúng phải áp dụng, không thể nào không làm, bởi quy định của Việt Nam cũng yêu cầu phải áp dụng”, ông Phúc nhấn mạnh.
Về quản lý vùng trồng sầu riêng phải chịu sự giám sát của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong đó, tất cả vùng trồng xuất đi Trung Quốc phải xây dựng hệ thống quản lý chất lượng, truy xuất nguồn gốc và áp dụng thực hành nông nghiệp tốt. “Nhưng, hiện nay tôi thấy nhiều vùng trồng của chúng ta không làm ba nội dung này”, ông Phúc nêu thực trạng và cho biết, không đáp ứng được quy định của Trung Quốc, dẫn đến bị ngưng cũng phải chấp nhận.
Ở góc độ địa phương, ông Huỳnh Thanh Vui, Phó chi cục trưởng Chi cục trồng trọt và bảo vệ thực vật thành phố Cần Thơ, thừa nhận thời gian qua, phía Trung Quốc chỉ kiểm tra trực tuyến nên có tình trạng chọn một vườn đẹp quy mô 1-2 héc ta trong toàn bộ mã số vùng trồng (quy định quy mô phải từ 10 héc ta) để quay cho phía Trung Quốc kiểm tra. “Đây là việc làm để mình “tạo điều kiện” cho mình, nhưng khi họ (Trung Quốc) qua kiểm tra thực tế, thì phải xem lại”, ông cho biết.
Với cơ sở đóng gói, theo ông Phúc, quy định là cán bộ được Bộ Nông nghiệp và Môi trường ủy quyền phải giám sát quá trình chế biến, đóng gói, nhưng hầu như chưa triển khai. "Nội dung này cũng được quy định trong nghị định thư xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc", ông nói.
Thậm chí, theo ông Phúc, đã có trường hợp, đoàn giám sát của Tổng cục hải quan Trung Quốc (GACC) đến đánh giá, cơ sở đóng gói được ngăn phòng bài bản, nhưng khi đoàn rút lui lại tháo ra thành một xưởng trống trừ trước ra sau. “Đây là việc không nên làm”, ông cảnh báo.
Các quy định kiểm soát để đảm bảo an toàn thực phẩm cho trái sầu riêng xuất khẩu nói chung và xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc nói riêng đã có. Tuy nhiên, thời gian qua, việc tuân thủ quy định có liên quan đã có sự “xem nhẹ”, dẫn đến khó khăn trong xuất khẩu khi Trung Quốc “siết” chặt quản lý như thực tế diễn ra.
Rõ ràng, việc Bộ Nông nghiệp và Môi trường ban hành “quy trình kiểm soát an toàn thực phẩm đối với trái sầu riêng tươi xuất khẩu” là điều cần thiết khi đã hệ thống lại các quy định để các tác nhân trong chuỗi ngành hàng tuân thủ. Tuy nhiên, vấn đề vẫn nằm ở chỗ phải làm thật, tuân thủ nghiêm túc các quy định của Việt Nam và nước nhập khẩu...
(*) Điều 20. Điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm trong bảo quản thực phẩm
Cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm phải bảo đảm các điều kiện về bảo quản thực phẩm sau đây:
(a) Nơi bảo quản và phương tiện bảo quản phải có diện tích đủ rộng để bảo quản từng loại thực phẩm riêng biệt, có thể thực hiện kỹ thuật xếp dỡ an toàn và chính xác, bảo đảm vệ sinh trong quá trình bảo quản;
(b) Ngăn ngừa được ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm, côn trùng, động vật, bụi bẩn, mùi lạ và các tác động xấu của môi trường; bảo đảm đủ ánh sáng; có thiết bị chuyên dụng điều chỉnh nhiệt độ, độ ẩm và các điều kiện khí hậu khác, thiết bị thông gió và các điều kiện bảo quản đặc biệt khác theo yêu cầu của từng loại thực phẩm;
(c) Tuân thủ các quy định về bảo quản của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm.
2. Bộ trưởng Bộ Y tế, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và quy định cụ thể về điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm trong bảo quản thực phẩm thuộc lĩnh vực được phân công quản lý.
Điều 21. Điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm trong vận chuyển thực phẩm
Tổ chức, cá nhân vận chuyển thực phẩm phải bảo đảm các điều kiện sau đây:
(a) Phương tiện vận chuyển thực phẩm được chế tạo bằng vật liệu không làm ô nhiễm thực phẩm hoặc bao gói thực phẩm, dễ làm sạch
(b) Bảo đảm điều kiện bảo quản thực phẩm trong suốt quá trình vận chuyển theo hướng dẫn của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh
(c) Không vận chuyển thực phẩm cùng hàng hóa độc hại hoặc có thể gây nhiễm chéo ảnh hưởng đến chất lượng thực phẩm.
2. Cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền quy định về phương tiện vận chuyển thực phẩm; đường vận chuyển thực phẩm đối với một số loại thực phẩm tươi sống tại các đô thị.
Trung Chánh