Tiếp đó, các đại biểu Quốc hội thảo luận tại Tổ về các nội dung: Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai; Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả công tác hội nhập quốc tế; Chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Gia Bình.
Cơ chế đặc thù nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế
Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc trình bày Tờ trình về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả công tác hội nhập quốc tế. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Thay mặt Chính phủ trình bày Tờ trình, Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc nêu rõ, việc xây dựng và ban hành Nghị quyết là yêu cầu cấp thiết nhằm quy định chính sách cơ chế đặc thù trong triển khai nhiệm vụ đối ngoại, hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới theo Nghị quyết số 59-NQ/TW của Bộ Chính trị. Nghị quyết này cũng nhằm khẳng định và khắc phục một số khó khăn, điểm nghẽn trong công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế thời gian vừa qua, nổi bật là việc tăng cường và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, phát huy vai trò của địa phương, doanh nghiệp và đảm bảo nguồn lực.
Dự thảo Nghị quyết gồm 8 Chương, 29 Điều với 2 Phụ lục, tập trung vào ba chính sách lớn. Chính sách thứ nhất là tăng cường và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, đẩy mạnh và nâng cao tầm ngoại giao đa phương, chủ động đóng góp trí tuệ, nguồn lực, gia tăng sức mạnh mềm của đất nước. Nội dung này bao gồm việc cho phép Chính phủ ban hành Nghị quyết để xử lý vướng mắc về pháp luật trong triển khai các dự án hợp tác trọng điểm, chiến lược; cho phép địa phương thành lập văn phòng đại diện ở nước ngoài tại một số địa bàn trọng điểm; cho phép cử lực lượng tham gia hoạt động xây dựng, kiến thiết tại các nơi có xung đột, thảm họa.
Chính sách thứ hai là phát huy vai trò trung tâm, chủ thể, động lực và lực lượng trụ cột của doanh nghiệp trong hội nhập quốc tế. Chính sách này đề xuất cho phép doanh nghiệp lập quỹ phát triển hội nhập quốc tế nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, và hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài.
Chính sách thứ ba là đẩy mạnh đào tạo, nâng cao chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại ở cả trung ương và địa phương.
Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại của Quốc hội Lê Tấn Tới trình bày Báo cáo thẩm tra về dự thảo Nghị quyết. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại của Quốc hội Lê Tấn Tới cho biết Ủy ban thống nhất với Tờ trình của Chính phủ về sự cần thiết ban hành Nghị quyết; nhận thấy hồ sơ dự án đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến và thông qua tại kỳ họp này.
Tuy nhiên, Ủy ban đề nghị làm rõ hơn các "điểm nghẽn" trong quá trình thực hiện chính sách thời gian qua, làm cơ sở cho việc ban hành cơ chế, chính sách đặc thù, đồng thời bổ sung lập luận, căn cứ, số liệu dẫn chứng cụ thể cho các nhóm khó khăn, vướng mắc.
Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại đề nghị cần xác định rõ thời hạn hết hiệu lực thi hành của Nghị quyết; đồng thời, sau thời gian thực hiện, cần nghiên cứu đề xuất sửa đổi các văn bản pháp luật điều chỉnh phù hợp các chính sách trong Nghị quyết; ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành có hiệu lực đồng thời với thời gian hiệu lực của Nghị quyết từ 1/1/2026.
Tháo gỡ vướng mắc trong thi hành Luật Đất đai
Sau khi nghe các báo cáo, các đại biểu Quốc hội đã về tổ để thảo luận về dự thảo Nghị quyết này và Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai; Chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Gia Bình.
Thảo luận tại Tổ, nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội đánh giá cao sự chuẩn bị công phu, nghiêm túc của Chính phủ và các cơ quan thẩm tra, đồng thời đưa ra nhiều ý kiến cụ thể, sâu sắc nhằm hoàn thiện các cơ chế, chính sách đặc thù và tính khả thi của Dự án đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Gia Bình.
Về Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai, nhiều ý kiến phát biểu nhận định việc ban hành Nghị quyết nhằm giải quyết những khó khăn phát sinh ngay sau khi Luật Đất đai 2024 được thông qua, đặc biệt liên quan đến vấn đề tổ chức chính quyền địa phương.
Đại biểu Nguyễn Anh Trí (Hà Nội) nhấn mạnh xử lý giá đất là "cực kỳ khó". Đại biểu bày tỏ sự đồng tình việc Nhà nước quyết định giá đất thông qua bảng giá đất và chính sách thuế để điều tiết. Tuy nhiên, đại biểu đề xuất cần có sự tham gia ở mức độ nhất định của người có đất, vì đất đai là tài sản cực lớn, thậm chí là tài sản cả đời của họ. Để tránh sự rối loạn giá đất của khu vực, đại biểu đề nghị nên có quy định về "giá đất tối đa và tối thiểu".
Về cơ chế cưỡng chế thu hồi đất, đại biểu nhất trí với quy định cưỡng chế khi đạt 75% sự đồng thuận của người dân, nhưng nhấn mạnh cần có một hệ số phạt đối với các trường hợp cố tình chây ỳ. Với các trường hợp bị cưỡng chế, đại biểu kiến nghị mức bồi thường tối đa chỉ bằng mức trung bình của thời điểm đó, chứ không phải mức cao nhất.
Đại biểu Quốc hội TP Đà Nẵng Trần Chí Cường phát biểu. Ảnh tư liệu: Doãn Tấn/TTXVN
Liên quan đến triển khai các dự án hạ tầng, đại biểu Trần Chí Cường (Đà Nẵng) lưu ý về độ vênh trong thẩm quyền ra quyết định thu hồi đất. Đại biểu lo ngại việc giao Chủ tịch UBND cấp xã quyết định thu hồi đất theo tiến độ dự án trong khi cấp tỉnh mới là cấp quyết định chủ trương và tiến độ đầu tư. Điều này dễ dẫn đến việc cấp xã thực hiện không kịp tiến độ chung và gây khó khăn cho các dự án nằm giữa hai xã.
Đại biểu Trương Xuân Cừ (Hà Nội) nhấn mạnh sự cần thiết đầu tư số hóa hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia. Đại biểu cho rằng không thể đáp ứng yêu cầu của Chính phủ số, quốc gia số nếu vẫn giữ cách làm hồ sơ giấy hiện nay. Đặc biệt, đại biểu kêu gọi đầu tư sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và phân tích dữ liệu lớn để cảnh báo hiện tượng sốt đất ảo và phát hiện sai lệch hồ sơ, ngăn ngừa lừa đảo vì "một trí tuệ nhân tạo có thể liên thông được 1 triệu tài liệu trong 1 giây".
Thảo luận về dự thảo Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả công tác hội nhập quốc tế, các ý kiến phát biểu cho rằng Nghị quyết được ban hành sẽ tăng cường sự chủ động của các bộ, ngành trong đàm phán quốc tế và thực hiện Nghị quyết 59 của Bộ Chính trị.
Đại biểu Tạ Đình Thi (Hà Nội) nhấn mạnh ba vấn đề mang tính chiến lược: hợp tác công nghệ, vấn đề biển đảo và đưa người Việt Nam vào làm việc tại các tổ chức quốc tế.
Về công nghệ chiến lược, đại biểu Tạ Đình Thi đề nghị trong Nghị quyết cần có những quy định tạo sự "đột phá thực sự", như ưu đãi hoặc hỗ trợ đặc thù, vượt trội so với mặt bằng chung để thu hút các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới (như AI, công nghệ bán dẫn, sinh học) đặt các trung tâm R&D (nghiên cứu-phát triển) tại Việt Nam.
Về vấn đề biển đảo, đại biểu đề xuất cần tăng cường hợp tác quốc tế về an ninh biển và đẩy mạnh ngoại giao khoa học biển. Đặc biệt, cần hoàn thiện chính sách đối với ngư dân, coi họ là "những người lính thực thụ" bám biển, bằng cách trang bị kiến thức pháp luật quốc tế, ngoại ngữ, và phương tiện thông tin liên lạc hiện đại.
Đại biểu Tạ Đình Thi cũng kiến nghị cần xây dựng một chiến lược quốc gia bài bản để đưa người Việt Nam có năng lực vào ứng cử và làm việc tại các tổ chức quốc tế then chốt.
Dự án đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Gia Bình là công trình quan trọng cấp quốc gia, được ví như một "sân bay Long Thành ở phía Bắc". Một điểm đáng chú ý là dự án chủ yếu huy động vốn ngoài ngân sách, giảm áp lực lên đầu tư công.
Thảo luận về dự án này, đại biểu Nguyễn Thị Lan (Hà Nội) đánh giá cao tính cấp thiết và chiến lược của dự án, nhưng bày tỏ quan tâm sâu sắc đến các vấn đề xã hội. Đại biểu nhấn mạnh việc giải phóng mặt bằng sẽ ảnh hưởng đến hàng nghìn hộ dân, và nếu không có giải pháp tốt, vấn đề này có thể làm chậm tiến độ. Đại biểu cũng đề nghị cần có nghiên cứu kỹ lưỡng các tác động môi trường lâu dài, đặc biệt là tiếng ồn, ngập úng.
Đại biểu Quốc hội TP Đà Nẵng Tạ Văn Hạ phát biểu. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Đại biểu Tạ Văn Hạ (Đà Nẵng) đề xuất đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án. Đại biểu cho rằng thời gian thực hiện giai đoạn 2 lên tới 20 năm (Giai đoạn 2 đến 2050) là quá dài. Đại biểu cũng nêu bật tính đặc thù về văn hóa và lịch sử của khu vực Kinh Bắc, nơi người dân đã có những hy sinh lợi ích rất lớn, sẵn sàng di dời nhà cửa, mồ mả cho dự án quốc gia. Do đó, đại biểu đề nghị cần có cơ chế đặc thù xứng đáng với sự hy sinh này. Đại biểu cũng đề nghị cần xử lý vấn đề di dời các di tích lịch sử văn hóa, trong đó có di tích cấp quốc gia, trong đó, đại biểu nêu ra vướng mắc về việc liệu các di tích này có còn được công nhận danh hiệu cấp quốc gia nữa hay không khi chúng không còn nằm ở địa điểm gốc, vốn đã gắn với địa danh qua hàng nghìn đời.
Việt Đức (TTXVN)