Vừa qua, Quốc hội thảo luận về Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Trong đó, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình có nêu chủ trương không cho phép các trường đại học không chuyên đào tạo một số lĩnh vực.
Cụ thể, với lĩnh vực luật, hiện nay, Việt Nam có hơn 90 khoa luật tại các trường không chuyên, tới đây không cho phép các trường không chuyên đào tạo cử nhân luật, chỉ cho phép dạy luật như một môn phối hợp. [1]
Nhiều chuyên gia đồng tình với tinh thần này nhằm nâng cao chất lượng đào tao hiện nay. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, trước tiên cần siết chặt đào tạo từ xa khối ngành Luật vì vấn đề giám sát chất lượng chưa đạt như kỳ vọng.
Lo khó đảm bảo chất lượng đào tạo từ xa ngành luật
Chia sẻ về vấn đề này, trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Duy Phương - nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Luật (Đại học Huế) cho biết: “Chủ trương này nằm trong Chương trình mục tiêu quốc gia nhằm hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, hướng đến việc tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng như xã hội mong muốn, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.
Đây là mục tiêu cốt lõi, nhằm khắc phục tình trạng mở ngành luật tràn lan, chất lượng không đồng đều, nặng về hình thức và đào tạo không gắn với nhu cầu thực tiễn, dẫn đến tỉ lệ lớn cử nhân làm việc trái ngành.
Nếu thực hiện tốt, chủ trương sẽ giúp tập trung được nguồn lực (giảng viên, cơ sở vật chất, tài liệu chuyên môn) vào các trường/khoa có kinh nghiệm và thế mạnh chuyên sâu về luật, từ đó xây dựng các chương trình đào tạo đạt chuẩn quốc tế.
Để làm điều này cần tăng cường kiểm soát chất lượng, siết chặt điều kiện đào tạo sẽ buộc các cơ sở đào tạo phải đầu tư mạnh mẽ hơn vào chương trình; đội ngũ giảng viên, nhất là đội ngũ giảng viên có học hàm, học vị cao như giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ; các điều kiện về cơ sở vật chất phải đạt chuẩn, từ đó nâng cao chất lượng đầu ra.
Các cơ sở không đủ điều kiện có thể phải sáp nhập hoặc tự giải thể theo định hướng xây dựng lại các tiêu chí đại học đạt chuẩn quốc tế. Việc giảm bớt cơ sở đào tạo luật dẫn đến số lượng sinh viên luật có thể sẽ giảm trong ngắn hạn, nhưng chất lượng đầu ra sẽ được kỳ vọng tăng lên, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường lao động.
Tóm lại, cử nhân luật cần được đào tạo ở “cơ sở đào tạo chuyên sâu” tuy nhiên vấn đề thế nào là cơ sở đào tạo luật chuyên sâu cần phải có những quy định về tiêu chuẩn, tiêu chí đầy đủ, rõ ràng".
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Duy Phương nêu, lý do chính khiến việc đào tạo ngành luật cần đặt trong các cơ sở đào tạo chuyên sâu là để đảm bảo chất lượng chuyên môn, tính chuyên nghiệp và đạo đức nghề nghiệp của cử nhân luật.
Chỉ các cơ sở chuyên sâu mới có đủ đội ngũ chuyên gia và kinh nghiệm thực tiễn để truyền đạt kiến thức chuyên sâu và kỹ năng hành nghề như kỹ năng tranh tụng, tư vấn pháp lý phức tạp.
Mặt khác, đào tạo luật đòi hỏi các phòng thực hành chuyên biệt như phòng thực hành tòa án giả định (moot court) để sinh viên rèn luyện kỹ năng tranh tụng, phản biện. Cần có thư viện pháp luật chuyên sâu với nguồn tài liệu, án lệ, tạp chí khoa học phong phú.
Việc tập trung đào tạo tại cơ sở chuyên sâu giúp chuẩn hóa và siết chặt tiêu chí đầu ra, đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực phục vụ các cơ quan tư pháp, lập pháp và hành pháp (tòa án, viện kiểm sát, luật sư, công chứng viên...).
Cùng bàn luận về nội dung này, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Minh Đoan - nguyên Phó trưởng khoa Khoa Pháp luật Hành chính - Nhà nước, Trường Đại học Luật Hà Nội bày tỏ, luật là ngành đào tạo quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến số phận, tính mạng con người. Vì thế việc đào tạo các luật gia đòi hỏi phải ngày càng nâng cao. Trước đây, ở Liên Xô (cũ) đào tạo luật kéo dài 5 năm. Ở Việt Nam đã rút xuống 4 năm rưỡi và bây giờ là 4 năm.
Thời gian càng giảm, yêu cầu đào tạo càng phải chuyên sâu, chất lượng hơn cho nên các cơ sở đào tạo không chuyên khó lòng đảm bảo. Mặc dù vậy không nên cấm mà quan trọng là siết lại việc đào tạo. Ví dụ, cần nâng cao điều kiện mở ngành luật, nhất là về số lượng và chất lượng giảng viên, đồng thời quy định rõ hạn mức tuyển sinh tương ứng với đội ngũ giảng viên hiện có.
Liên quan đào tạo vấn đề đào tạo từ xa ngành luật, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Minh Đoan nói: "Mô hình đào tạo từ xa đã được nhiều quốc gia áp dụng nhưng riêng ngành luật thì không áp dụng. Trường Đại học Luật Hà Nội cũng từng đặt ra vấn đề đào tạo từ xa, tuy nhiên, sau đó chúng tôi không thực hiện. Vì đào tạo từ xa khó đảm bảo chất lượng".
Nhìn từ thực tiễn, thầy Đoan nêu một ví dụ, trước đây, từng có cơ sở giáo dục dù không đủ số lượng nhân sự chuyên môn luật nhưng lại đào tạo từ xa trên khắp cả nước, 1 giảng viên có thể dạy đến 4-5 học phần, dù đáng lẽ muốn đào tạo chuyên sâu, thậm chí 1 học phần cần đến nhiều người dạy. Chỉ nói riêng việc “ăn đong” về người dạy như vậy đã không thể đảm bảo chất lượng.
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Minh Đoan - Nguyên Phó trưởng khoa Khoa Pháp luật Hành chính - Nhà nước, Trường Đại học Luật Hà Nội. Ảnh: research.hlu.edu.vn.
Trước những lo ngại về chất lượng của việc đào tạo từ xa ngành luật khi xét đầu vào dễ, khó giám sát việc tiếp thu kiến thức của người học, đặc biệt là trong vấn đề thực hành luật, Viện sĩ, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện - nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế - Luật (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) khẳng định, việc đào tạo từ xa ngành luật nên chấm dứt vì dễ tiếp tay cho hiện tượng “mua bằng bán điểm”.
Nhiều giải pháp đồng bộ để nâng cao chất lượng đào tạo ngành luật
Dưới góc nhìn của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Duy Phương, việc siết lại và chỉ cho phép các cơ sở chuyên sâu đào tạo cử nhân luật là biện pháp cần thiết nhưng không thể giải quyết tận gốc vấn đề "thừa cử nhân, thiếu chất lượng" nếu không có các biện pháp đồng bộ.
Để giải quyết vấn đề này, trước hết cần có cơ quan kiểm định chất lượng giáo dục độc lập, chuyên trách và đủ năng lực để đánh giá thường xuyên và nghiêm ngặt các cơ sở chuyên sâu về luật. Điều này buộc các trường phải liên tục cải thiện và đạt được các tiêu chuẩn định lượng, không chỉ dựa vào uy tín sẵn có.
Bên cạnh đó, quy định chuẩn hóa đội ngũ giảng viên, giảng viên cần phải có kinh nghiệm hành nghề thực tế, không chỉ đơn thuần là có bằng cấp học thuật (thạc sĩ, tiến sĩ). Việc này đảm bảo kiến thức của giảng viên được truyền đạt mang tính ứng dụng cao, giúp sinh viên hiểu rõ sự khác biệt giữa lý thuyết và thực tiễn pháp lý.
Ngoài ra, trong đào tạo phải liên kết chặt chẽ với các cơ quan tư pháp và các tổ chức hành nghề luật như tòa án, viện kiểm sát, văn phòng luật sư và doanh nghiệp để sinh viên được thực tập thực tế.
Cuối cùng, chuẩn đầu ra cần được siết chặt và ưu tiên hàng đầu, phải được thiết lập rõ ràng, nghiêm ngặt và phù hợp với yêu cầu của thị trường. Chuẩn đầu ra có thể được kiểm tra bằng các bài thi tổng hợp, đánh giá kỹ năng thực hành và kỳ thi tốt nghiệp có sự tham gia của các chuyên gia bên ngoài (cơ quan tư pháp/các tổ chức hành nghề luật). Việc siết chuẩn đầu ra sẽ trực tiếp buộc các cơ sở đào tạo luật phải đảm bảo rằng mỗi sinh viên tốt nghiệp đều có đủ năng lực chuyên môn và kỹ năng thực hành cần thiết.
Chỉ cho phép các cơ sở chuyên sâu đào tạo là một bước sàng lọc quan trọng ở đầu vào (giảm số lượng cơ sở đạo tạo, giảm quy mô tuyển sinh), nhưng siết chặt chuẩn đầu ra là yếu tố quyết định chất lượng cuối cùng của nguồn nhân lực pháp luật Việt Nam.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Duy Phương cũng chỉ ra, một giai đoạn quá độ là hoàn toàn cần thiết và bắt buộc phải có để tránh xáo trộn lớn, đảm bảo tính ổn định và công bằng cho sinh viên, giảng viên và các cơ sở đào tạo đang đào tạo luật khi thực hiện chủ trương. Do đó, lộ trình đó có thể áp dụng như sau:
Giai đoạn chuẩn bị khoảng 1 năm, Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố chính thức các tiêu chí Chuẩn cơ sở đào tạo luật chuyên sâu. Xác định danh sách các cơ sở đào tạo đủ chuẩn và không đủ chuẩn. Cơ sở đào tạo không đủ chuẩn ngừng tuyển sinh từ năm học tiếp theo.
Giai đoạn quá độ từ 4 - 5 năm, nhằm duy trì đào tạo cho các khóa sinh viên đã trúng tuyển trước khi xác định cơ sở đào tạo không được tuyển sinh tiếp. Điều này vừa đủ để các khóa sinh viên đang học kịp tốt nghiệp, vừa tạo áp lực và thời gian hợp lý để các trường không chuyên hoàn tất việc chuyển đổi mô hình đào tạo.
Thầy Phương đề xuất thêm, muốn thực hiện thành công việc nâng cao chất lượng đào tạo ngành luật, các cơ sở đào tạo chuyên sâu rất cần sự hỗ trợ chiến lược từ Chính phủ cùng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trước hết, Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần ban hành chính thức danh sách các cơ sở được phép đào tạo cử nhân luật theo tiêu chí chuyên sâu và lộ trình thực hiện chi tiết.
Cần kiểm tra, giám sát việc xây dựng chương trình đào tạo theo Chương trình Đào tạo khối ngành pháp luật đã được ban hành.
Hỗ trợ phát kinh phí nghiên cứu khoa học và đầu tư cơ sở vật chất (như xây dựng phòng thực hành tòa án, mua sắm hệ thống cơ sở dữ liệu) cho các cơ sở đào tạo luật chuyên sâu để đơn vị mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng một cách bền vững.
Đảm bảo các cơ sở chuyên sâu được tiếp cận miễn phí hoặc với chi phí ưu đãi tới các văn bản pháp luật, án lệ và các hệ thống dữ liệu pháp lý quốc gia quan trọng phục vụ nghiên cứu và giảng dạy. Sự hỗ trợ này sẽ tạo ra một hệ sinh thái đào tạo luật chất lượng cao, nơi các cơ sở chuyên sâu có đủ điều kiện để đào tạo ra những chuyên gia pháp lý giỏi, đáp ứng được nhu cầu ngày càng phức tạp của xã hội.
Song song với đó, nhằm đảm bảo uy tín của ngành luật và chất lượng nhân sự pháp lý một cách bền vững, việc siết đầu vào và thu hẹp phạm vi đào tạo chỉ là những bước đi ban đầu. Cần bổ sung thêm các tiêu chí tập trung vào đầu ra và quản lý đạo đức nghề nghiệp.
Với tiêu chí chuẩn đầu ra, đây là các tiêu chí nhằm đảm bảo chỉ những người có đủ năng lực và phẩm chất mới được phép hành nghề luật (luật sư, thẩm phán, kiểm sát viên...).
Về đạo đức nghề nghiệp, ngành luật là ngành đặc thù, liên quan đến công lý và quyền con người. Uy tín của ngành luật phụ thuộc rất lớn vào đạo đức của người hành nghề nên cần đưa môn học Đạo đức Nghề luật trở thành môn học tiên quyết trong chương trình đào tạo cử nhân luật và là nội dung bắt buộc trong các khóa đào tạo nghề.
Đưa các tình huống thực tiễn (case studies) về xử lý vi phạm đạo đức vào giảng dạy để sinh viên có nhận thức sâu sắc ngay từ khi còn trên ghế nhà trường. Thiết lập một Bộ Quy tắc đạo đức nghề nghiệp chi tiết, được áp dụng chung cho tất cả các chức danh pháp lý (luật sư, thẩm phán, công chứng viên...).
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Duy Phương - nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Luật (Đại học Huế). Ảnh: NVCC.
Cùng nêu lên giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp lý, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Minh Đoan nói: "Bên cạnh việc kiểm định chất lượng thông qua đánh giá ngoài, cần có thêm đánh giá từ phía xã hội và đơn vị sử dụng lao động. Vì chất lượng nguồn nhân lực mới là thước đo quan trọng nhất và nên hiểu, chuẩn đầu ra là tri thức thực tiễn và năng lực làm việc của người học. Nhất là với ngành luật, học để hành nghề.
Chúng ta có thể tham khảo mô hình của Mỹ - nơi Hiệp hội luật gia thực hiện đánh giá chất lượng đào tạo hằng năm và đưa ra các định mức tuyển sinh cho các cơ sở giáo dục. Những cơ sở đào tạo tốt được tăng chỉ tiêu, còn cơ sở đào tạo kém phải giảm chỉ tiêu. Cách làm này tạo áp lực để các đơn vị thường xuyên cải thiện chất lượng giảng dạy, tăng cường năng lực đội ngũ và nâng chuẩn đầu ra".
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Minh Đoan chia sẻ thêm, khi siết lại việc cho phép đào tạo, tất cả các cơ sở giáo dục đều phải thay đổi, không chỉ mỗi các trường không chuyên. Những trường chuyên sâu lại càng phải chủ động đổi mới mạnh mẽ. Bởi xã hội ngày càng yêu cầu cao hơn đối với một cử nhân luật, từ kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp đến năng lực ngoại ngữ.
Đặc biệt, tăng cường thực hành trong đào tạo luật là vô cùng quan trọng. Các trường luật cần đẩy mạnh mô hình phòng xử án, phòng tư vấn pháp lý, đưa nhiều tình huống thực tiễn vào trong chương trình học.
Mặc dù vậy, một rào cản hiện nay là quy định giảng viên không được hành nghề luật sư hoặc tham gia một số hoạt động nghề nghiệp liên quan. Điều này hạn chế cơ hội tiếp cận thực tiễn của giảng viên. Do không thể tăng thêm số môn hay số tiết, kỹ năng hành nghề phải được lồng ghép ngay trong từng môn học, đòi hỏi giảng viên phải liên tục tự bồi dưỡng và cập nhật kinh nghiệm thực tiễn.
Tài liệu tham khảo:
[1] https://baochinhphu.vn/khac-phuc-bang-duoc-tinh-trang-chu-truong-thi-dung-nhung-thuc-hien-lai-co-van-de-102251125105645299.htm?
Hồng Linh