Kiến nghị sửa Thông tư 45 để hình thành 'quỹ chung không chia' ở trường tư thục

Kiến nghị sửa Thông tư 45 để hình thành 'quỹ chung không chia' ở trường tư thục
một ngày trướcBài gốc
Thực hiện chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 122/2006/QĐ-TTg ngày 29/5/2006 về chuyển toàn bộ 19 trường đại học dân lập qua loại hình đại học tư thục, sau đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành 2 thông tư hướng dẫn quan trọng. Đó là Thông tư số 20/2010/TT-BGDĐT ngày 16/7/2010 quy định nội dung, trình tự, thủ tục chuyển đổi trường đại học dân lập sang loại hình trường đại học tư thục và Thông tư số 45/2014/TT-BGDĐT ngày 17/12/2014 quy định về việc chuyển đổi loại hình trường đại học dân lập sang loại hình trường đại học tư thục.
Đáng nói, cả 2 thông tư trên đều không tính tới sự thay đổi bản chất sở hữu của nhà trường khi chuyển từ trường dân lập (sở hữu tập thể) qua trường tư thục (sở hữu tư nhân). Điều này đã vô tình tước đi quyền làm chủ của một bộ phận lớn các thành viên của trường dân lập – những người đã đóng góp nhiều công sức để tạo nên “thương hiệu” của nhà trường và buộc họ phải trở thành những người làm thuê.
Thời gian qua, theo dõi tình hình phát triển của các trường đại học tư thục có nguồn gốc chuyển đổi từ loại hình trường đại học dân lập, Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam nhận thấy, có trường có biểu hiện mất đoàn kết nghiêm trọng giữa những “chủ nhân mới” và “chủ nhân cũ” của trường.
Ảnh minh họa: CMCU
Theo Hiệp hội, chủ trương chuyển đổi các trường đại học dân lập (thuộc loại hình tổ chức không vì lợi nhuận) qua loại hình tư thục (mang bản chất “lợi nhuận”) bắt đầu từ Nghị định 75/2006/NĐ-CP ngày 2/8/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục 2005, ở đó nêu rõ “không thành lập các cơ sở dân lập ở giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học” (Điều 18) và “đối tượng tham gia hội đồng quản trị của trường phải là những người có vốn góp xây dựng trường” (Điều 24).
Từ đó dẫn tới Quyết định 122/2006/QĐ-CP ngày 29/5/2006 (sớm hơn so với ngày ban hành Nghị định 75/2006/NĐ-CP) của Thủ tướng Chính phủ chuyển toàn bộ 19 trường đại học dân lập qua loại hình trường đại học tư thục. Với Quyết định này, các yếu tố “không vì lợi nhuận” đã dần được thay thế bằng các yếu tố “vì lợi nhuận” trong khu vực giáo dục đại học vì lẽ đó Hiệp hội có một số kiến nghị đối với từng loại hình trường.
Thứ nhất, đối với loại hình trường đại học dân lập
Hiệp hội đánh giá, Luật Giáo dục 2005 (Điều 67) khẳng định, tài sản của trường dân lập thuộc sở hữu tập thể của cộng đồng dân cư ở cơ sở. Nghị định số 75/2006/NĐ-CP quy định không thành lập các cơ sở dân lập ở giáo dục phổ thông, giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Đến Nghị quyết 29-NQ/TW năm 2013 lại xuất hiện khái niệm cơ sở giáo dục do cộng đồng đầu tư. Tiếp sau đó Luật Giáo dục 2019 (Điều 102) quy định tài sản của trường dân lập thuộc sở hữu của pháp nhân nhà trường. Rõ ràng các khái niệm trường do cộng động đầu tư và trường dân lập đều giống nhau vì cùng “bản chất” sở hữu. Vì thế, nên chăng cần hủy Quyết định 122 về chuyển các trường đại học dân lập qua đại học tư thục để phục hồi tư cách hợp pháp cho loại hình trường đại học dân lập này.
Còn nếu vẫn tiếp tục thực hiện theo Quyết định 122/2006/QĐ-TTg và chuyển đổi trường dân lập sang trường tư thục theo Thông tư số 45/2014/TT-BGDĐT mà vẫn đảm bảo các trường phát triển lành mạnh, công bằng thì Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam kiến nghị cần sớm điều chỉnh lại một số nội dung của Thông tư 45 như sau:
Thứ nhất, tại Khoản 1 Điều 5 khẳng định rõ phần vốn của các tổ chức, cá nhân góp ban đầu và góp trong quá trình hoạt động của trường dân lập, kể cả góp để tăng vốn cho trường trước xác định vốn điều lệ của trường tư thục, đều có chủ sở hữu (hữu hình) là các nhà đầu tư, họ đều trở thành cổ đông của trường, đều có quyền được chia lợi tức hàng năm.
Tuy nhiên, tại Khoản 2 Điều 5 tài sản do biếu, tặng hoặc cấp phát và được hình thành từ kết quả hoạt động của trường dân lập là tài sản sở hữu chung hợp nhất không phân chia của trường tư thục. Khối tài sản này lẽ ra cũng phải có chủ sở hữu (vô hình) là cộng đồng/ tập thể trường dân lập. Các đại diện của cộng đồng này (bao gồm các nhà quản lý, giảng viên và nhân viên của trường dân lập) cũng phải có quyền lực tương xứng với các nhà đầu tư trong hội đồng quản trị/ hội đồng trường của trường tư thục chuyển đổi. Cộng đồng này cũng phải được chia lợi tức hàng năm nhưng không được quyền nhận cho mình như các nhà đầu tư mà phải nộp vào khối tài sản sở hữu chung hợp nhất không chia để không ngừng gia tăng khối tài sản này cho trường tư thục. Thông tư cần quy định rõ ràng hơn điều này.
Thứ hai, tại Khoản 2 Điều 8, Nhà nước cần có quy định tương quan giữa só lượng thành viên góp vốn và số lượng thành viên đại diện cho cộng đồng nhà trường trong hội đồng quản trị/ hội đồng trường của trường tư thục chuyển đổi phải tương thích với tương quan giữa vốn điều lệ và khối tài sản chung hợp nhất không phân chia.
Đồng thời, cơ quan quản lý Nhà nước cần chấn chỉnh lại cơ cấu thành viên của Hội đồng trường tại tất cả các trường đại học dân lập đã thực hiện chuyển đổi qua loại hình tư thục theo đúng tinh thần của thông tư mới này.
Cùng với đó, cần có quy định đối với trường dân lập, tư thục về phân phối thu nhập, bảo đảm hằng năm trích một tỷ lệ nhất định cho quỹ tích lũy không chia để phát triển tài sản chung thuộc sở hữu cộng đồng trường. Trong quá trình phát triển nhà trường, luôn có công sức đóng góp của mọi người để cùng với những người lãnh đạo chủ chốt làm nên sự nghiệp. Quỹ không chia cũng có ý nghĩa đạo lý và khoa học trong việc ghi nhận công sức chung của "ông chủ tập thể" đồng thời cũng là xây dựng tích góp cái cốt vật chất để trường học có thể tồn tại lâu dài, đủ sức làm nên thương hiệu với lịch sử. Ở châu Âu, có những trường đại học danh tiếng đã tồn tại nhiều trăm năm, để lại dấu ấn đậm nét với sự phát triển nền văn minh dân tộc.
Vốn tích lũy mới được trích hằng năm sẽ là quỹ không chia thuộc sở hữu của tập thể cộng đồng trường.
Đối với loại hình trường đại học tư thục (có lợi nhuận)
Thể chế khá mới về loại hình trường đại học tư thục đã được quy định tại mục 3 Chương 2 Điều lệ trường đại học năm 2014. Theo ý kiến của các chuyên gia, các nội dung ở Mục 3 Điều lệ này (cũng như tại các văn bản tương đương khác) cần được điều chỉnh theo hướng:
Đưa vào khái niệm góp vốn bằng trí tuệ. Có quy định tỉ lệ cân đối thỏa đáng giữa phần góp vốn của các nhà giáo dục, nhà khoa học, nhà quản lý (về trí tuệ) và phần góp vốn của các nhà đầu tư (về tiền bạc, tài sản) để hạn chế xung đột giữa hai nhóm này.
Hạn chế tối đa việc vận dụng mô hình quản lý công ty cổ phần vào việc quản lý trường đại học tư thục với quá nhiều ưu tiên cho nhà đầu tư và thường dẫn tới nhiều tiêu cực (mất đoàn kết triền miên, tình trạng buôn bán trường…). Tốt hơn cả là nên chuyển qua mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên của Luật Doanh nghiệp. Nên chăng cần có quy định hạn chế trần góp vốn của cổ đông và cổ đông nhóm (như Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) để tránh hành vi thao túng trường của các nhóm lợi ích.
Không đặt nhà đầu tư như một cấp quyền lực tối thượng, có thể phủ định mọi nghị quyết của Hội đồng trường như quy định tại Điều 16a của Luật Giáo dục Đại học 2018. Tốt hơn cả là quy định quyền lực của nhà đầu tư chỉ được thể hiện qua tiếng nói và lá phiếu của các đại diện của họ trong Hội đồng trường theo nguyên tắc đối vốn.
Nếu đã xem trường đại học tư thục (vì lợi nhuận) có đặc tính giống một “doanh nghiệp tư nhân” thì cần bám sát các quy định ở Luật Doanh nghiệp. Do đó, cần xóa bỏ các quy định cứng “…Phần tài chính chênh lệch giữa thu và chi từ hoạt động đào tạo, khoa học và công nghệ của cơ sở giáo dục đại học tư thục phải dành ít nhất là 25% để đầu tư phát triển cơ sở giáo dục đại học…” tại Điều 66, Luật Giáo dục Đại học 2018.
Đối với loại hình trường đại học tư thục hoạt động không vì lợi nhuận
Dựa theo tinh thần của Nghị quyết 29 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nhà nước cần sớm có các chính sách khuyến khích thành lập các cơ sở giáo dục đại học tư thục hoạt động không vì lợi nhuận. Theo tinh thần đó, nội dung ở Mục 4 Chương 2 Điều lệ trường đại học 2014 cần được điều chỉnh theo các định hướng sau:
Cả hai loại hình trường đại học tư thục (vì lợi nhuận và hoạt động không vì lợi nhuận) đều do các tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân (gọi tắt là các thành phần góp vốn) đứng tên xin thành lập, cùng góp vốn xây dựng cơ sở vật chất, đều được đảm bảo kinh phí hoạt động chủ yếu bằng nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước.
Sự khác biệt giữa hai loại hình trường này, không phải chỉ ở chỗ nhà đầu tư được hưởng lợi tức nhiều hay ít (như đã được giải thích ở Điều 4 Luật Giáo dục Đại học 2012) mà chủ yếu ở “bản chất” sở hữu của nhà trường. Ở các trường tư thục vì lợi nhuận, sau khi thành lập trường, các cổ đông lớn trực tiếp nắm quyền quản trị trường; còn ở các trường tư thục hoạt động không vì lợi nhuận các nhà góp vốn sau khi hoàn thành nghĩa vụ đứng tên thành lập và xây dựng cơ sở vật chất của trường, phải tự nguyện chấp nhận chuyển quyền quản trị của mình cho các đại diện ưu tú của cộng đồng xã hội.
Do đó, trong khi tài sản của trường tư thục vì lợi nhuận thuộc sở hữu riêng (theo Điều 205 Bộ Luật Dân sự 2015) hoặc sở hữu chung theo phần (Điều 209 Bộ Luật dân sự 2015) thì tài sản của trường tư thục hoạt động không vì lợi nhuận thuộc sở hữu chung hợp nhất không thể phân chia /sở hữu của cộng đồng xã hội (Điều 210 Bộ Luật Dân sự 2015), chứ không phải chỉ của cộng đồng nhà trường (như tại Điều 29 Điều lệ trường đại học 2014).
Ở trường đại học tư thục (có lợi nhuận) Hội nghị nhà đầu tư là cơ quan quyền lực cao nhất trong trường. Thông qua Hội nghị này các cổ đông sẽ phân chia quyền lực trong Hội đồng trường và bộ máy điều hành để thực hiện quyền quản trị và quản lý của mình đối với nhà trường. Trong khi đó ở trường đại học tư thục hoạt động không vì lợi nhuận thì Hội đồng trường là tổ chức quản trị, là cơ quan quyền lực cao nhất trong trường, là đại diện duy nhất cho quyền sở hữu chung của cộng đồng xã hội/chủ sở hữu đối với tài sản của nhà trường.
Do đó việc Luật Giáo dục Đại học cho nhà đầu tư được can thiệp trực tiếp lên các quyết định của Hội đồng trường như ở loại hình trường đại học tư thục (vì lợi nhuận) là điều chưa hợp lý. Tuy nhiên Hội đồng trường cũng chỉ giữ vai trò định hướng phát triển cho nhà trường, giám sát hoạt động của nhà trường, tuyển chọn/bãi nhiệm Hiệu trưởng, chứ hoàn toàn không can thiệp trực tiếp vào công việc điều hành hàng ngày của Ban Giám hiệu nhà trường.
Ảnh minh họa: nguồn Trường Đại học Nguyễn Tất Thành
Khác với loại hình trường đại học dân lập đã có, do trường đại học tư thục không vì lợi nhuận mang bản chất sở hữu chung của cộng đồng xã hội (rộng hơn nhiều so với sở hữu tập thể của các thành viên trong trường dân lập) nên linh hồn của Hội đồng trường của trường đại học tư thục hoạt động không vì lợi nhuận phải là nhóm đại diện ưu tú cho cộng đồng xã hội từ phía ngoài nhà trường (bao gồm các cựu lãnh đạo nhà nước uy tín, các nhà giáo dục, nhà văn hóa, nhà khoa học nổi tiếng, các doanh nhân thành đạt…). Số lượng các thành viên thuộc nhóm này phải chiếm đa số trong Hội đồng trường và họ sẽ không được nhận bất kể một đặc lợi gì từ phía nhà trường, kể cả lương bổng. Theo kinh nghiệm của thế giới, việc chọn lựa và phê chuẩn nhân sự nghiêm túc (bao gồm cả năng lực và nhân cách) của các thành viên nhóm này giữ vai trò quyết định đảm bảo cho trường đại học không đi chệch khỏi mục tiêu không vì lợi nhuận, không xảy ra các xung đột đáng tiếc trong nội bộ.
Ở các quốc gia phát triển, những đóng góp của các “mạnh thường quân” cho trường tư thục không vì lợi nhuận thường dưới dạng hiến tặng, họ chỉ cần nhận sự tôn vinh của xã hội và nhà trường.
Cách làm này hiện chưa thực tế ở Việt Nam. Kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy, các nhà góp vốn vẫn được đền đáp vật chất hợp lý, ngoài việc được nhà trường và cộng đồng xã hội vinh danh, họ còn được hưởng các quyền lợi như: được cử đại diện vào Hội đồng trường, được ứng cử vào các chức danh quản lý trong trường, được nhận tiền thưởng hàng năm hợp lý (không vượt quá lãi suất trái phiếu Chính phủ) như đã quy định tại Luật Giáo dục Đại học 2012, được định đoạt phần vốn góp của mình, được bảo toàn nguồn vốn góp và được ưu tiên hoàn trả vốn khi giải thể trường… Lúc đó, vốn huy động cho trường tư thục hoạt động không vì lợi nhuận sẽ không tập trung vào một vài cổ đông chiến lược mà sẽ mở ra cho mọi thành viên của cộng đồng (như kiểu huy động tiền tiết kiệm của các ngân hàng).
Cũng như trường hợp ngân hàng lượng vốn mà trường hoạt động không vì lợi nhuận thu được sẽ phụ thuộc chủ yếu vào mức độ tín nhiệm của các thành viên Hội đồng trường và Ban Giám hiệu nhà trường nên họ cần phải là những đại diện ưu tú của cộng đồng xã hội.
Linh An
Nguồn Giáo Dục VN : https://giaoduc.net.vn/kien-nghi-sua-thong-tu-45-de-hinh-thanh-quy-chung-khong-chia-o-truong-tu-thuc-post248342.gd