Kinh tế báo chí trong kỷ nguyên số: Đổi mới toàn diện với tầm nhìn và hướng đi mới

Kinh tế báo chí trong kỷ nguyên số: Đổi mới toàn diện với tầm nhìn và hướng đi mới
5 giờ trướcBài gốc
Ông Nguyễn Văn Minh, Tổng Biên tập Báo Công thương
Kinh tế báo chí trong kỷ nguyên số đang đối mặt với áp lực cạnh tranh chưa từng có, đòi hỏi các tòa soạn phải đổi mới toàn diện về công nghệ, nội dung cũng như đổi mới về mô hình kinh doanh và tư duy tổ chức để tồn tại và phát triển bền vững. Ông đánh giá ra sao về nhận định này?
Tôi hoàn toàn đồng tình. Đây là giai đoạn mà kinh tế báo chí phải bước vào chu kỳ tiến hóa mới, đổi mới toàn diện với tầm nhìn và hướng đi mới. Mô hình báo chí truyền thống “được nuôi” dựa hoàn toàn vào nguồn kinh phí ngân sách hay cả mô hình tự chủ theo hướng thị trường cực đoan đều không còn phù hợp. Áp lực đến từ việc mất độc quyền thông tin, thị phần quảng cáo bị nền tảng xuyên biên giới chiếm lĩnh, trong khi chi phí làm báo ngày càng tăng cao, đòi hỏi nhân lực “5 trong 1”: viết, quay, dựng, số hóa, phân tích dữ liệu… ngày càng cao.
Nhìn ra đời sống báo chí thế giới có nhiều kinh nghiệm đáng để chúng ta suy ngẫm. Thực tế quốc tế cho thấy: The New York Times đang sống bằng thu phí nội dung. Financial Times sống nhờ dữ liệu và hội thảo. Nhân Dân Nhật Báo tích hợp truyền thông công – tư trong một hệ sinh thái kỹ thuật số. Còn Mediacorp Singapore là mô hình doanh nghiệp truyền thông nhà nước quản trị hiện đại.
Tại Việt Nam, báo chí, nhất là báo chí chuyên ngành không thể đứng ngoài cuộc. Chúng ta buộc phải chuyển từ vai trò đưa tin sang tổ chức thông tin, kiến tạo kết nối, gợi mở chính sách, dẫn dắt hành vi. Báo chí không còn là “trạm trung chuyển” mà phải là “chuỗi giá trị truyền thông có sản phẩm, có dịch vụ, có mô hình kinh tế rõ ràng”.
Nhiều cơ quan báo chí đã chuyển từ vai trò đưa tin sang tổ chức thông tin, sự kiện kiến tạo kết nối, gợi mở chính sách, dẫn dắt hành vi
Quảng cáo - nguồn thu chủ lực của báo chí truyền thống đang bị các nền tảng số như Google, Facebook, YouTube chiếm lĩnh phần lớn thị phần. Theo ông, đâu là “lối ra” cho các cơ quan báo chí để vừa đáp ứng nhiệm vụ tuyên truyền mà vẫn thu hút được doanh thu quảng cáo?
Đúng là quảng cáo truyền thống đã không còn là “chỗ dựa” như trước. Phần lớn thị phần quảng cáo số đang nằm trong tay các nền tảng xuyên biên giới. Tại Việt Nam, có ước tính cho thấy 80 - 90% ngân sách quảng cáo online rơi vào tay Google, Facebook, YouTube.
Tôi cho rằng, “lối ra” không nằm ở việc giành giật lại thị phần quảng cáo bằng số lượng view, mà ở việc tái định vị báo chí như một chủ thể cung cấp dịch vụ thông tin giá trị, định hướng, có chiều sâu. Chúng tôi từng có giai đoạn kiếm được một phần thu từ Google Ads, nhưng xác định rất rõ đây chỉ là nguồn phụ trợ, không thể là chiến lược dài hạn.
Tại Báo Công thương, chúng tôi chuyển hướng sang ba trục chính:
Một là, hợp tác truyền thông chiến lược với doanh nghiệp có chuỗi giá trị quốc gia; trong đó nội dung báo chí gắn với các chủ đề lớn về công nghiệp, năng lượng, phát triển bền vững, xuất khẩu, hội nhập…
Hai là, phát triển kinh tế báo chí từ tổ chức sự kiện, tọa đàm, hội thảo chuyên đề, nơi báo chí không chỉ đưa tin mà đóng vai trò “kiến tạo kết nối và dẫn dắt thảo luận chính sách”.
Ba là, nghiên cứu tích hợp thương mại điện tử, đặc biệt trong các tuyến nội dung về sản phẩm công nghiệp nông thôn, sản phẩm OCOP (mỗi xã một sản phẩm), tiêu dùng thông minh. Báo chí không chỉ là nơi quảng bá, mà còn trở thành cầu nối trực tiếp giữa nhà sản xuất và thị trường, thông qua nền tảng số.
Tóm lại, nếu chỉ trông chờ vào “banner – booking”, thì báo chí sẽ mãi bị động. Phải “quảng cáo bằng nội dung chất lượng, kết nối bằng giá trị thật, dẫn dắt bằng vai trò đặc thù”.
Nhiều cơ quan báo chí đang làm rất tốt việc phát triển các sản phẩm phụ trợ (bản tin chuyên sâu, hội thảo, talk show…), để thêm nguồn thu. Tuy nhiên, đòi hỏi nguồn lực lớn và tư duy kinh doanh hiện đại, không phải tòa soạn nào cũng đáp ứng được. Ý kiến của ông ra sao?
Đây là nhận định rất đúng. Sản phẩm phụ trợ không còn là “phụ”, mà đang dần trở thành phần chủ lực trong mô hình kinh tế báo chí hiện đại. Nhưng để làm được, cần ba yếu tố: chiến lược nội dung rõ ràng, năng lực tổ chức sự kiện chuyên nghiệp và đội ngũ đa nhiệm.
Thực tế ở Báo Công thương như thế nào, ông có thể chia sẻ thêm?
Tại Báo Công thương, chúng tôi chia các sản phẩm phụ trợ thành ba nhóm:
Sản phẩm nội dung cao cấp: các bản tin chuyên ngành theo đơn đặt hàng, dữ liệu thị trường, bản tin cảnh báo thương mại, hội nhập quốc tế.
Sản phẩm kết nối – sự kiện, như Diễn đàn năng lượng, hội thảo logictics, lấy công bố bảng xếp hạng trong các lĩnh vực công nghiệp, thương mại, hội nhập… chuỗi đối thoại với doanh nghiệp đầu ngành, talk show, livestream chính sách.
Sản phẩm dịch vụ truyền thông, đào tạo, tư vấn: xây dựng chương trình huấn luyện truyền thông nội bộ cho doanh nghiệp, đào tạo truyền thông chính sách cho các sở, ngành, địa phương, phát triển dịch vụ truyền thông thương hiệu ngành theo chiều sâu.
Vấn đề không nằm ở việc có nguồn lực hay không, mà ở chỗ, tòa soạn có tư duy mô hình kinh doanh và biết tổ chức chuỗi giá trị truyền thông gắn với thế mạnh của mình hay không.
Hướng đến tự chủ, nhưng báo chí vẫn là lĩnh vực đặc thù cần sự bảo trợ của Nhà nước và sự đồng hành của xã hội. Thời gian tới, Nhà nước cần ban hành thêm chính sách gì để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các cơ quan báo chí trong quá trình chuyển đổi số và tự chủ tài chính, thưa ông?
Tôi cho rằng, đã đến lúc cần một chương trình hành động quốc gia về kinh tế báo chí, trong đó ba trụ cột chính sách cần được hoàn thiện sớm.
Một là, chính sách về hạ tầng số báo chí. Nhà nước cần hỗ trợ xây dựng nền tảng CMS dùng chung, hệ thống phân phối nội dung thông minh, AI nội dung cho các tòa soạn chính thống. Đồng thời, cần đầu tư công vào một số báo chiến lược – chính sách – chuyên ngành để không bị “out” khỏi cuộc chơi số toàn cầu.
Hai là, chính sách tài chính, đặt hàng, hỗ trợ. Nhà nước cần mở rộng đặt hàng công vụ báo chí, không chỉ tuyên truyền đơn tuyến mà là đặt hàng nội dung chuyên sâu, phản biện chính sách, tư liệu ngành. Cho phép các cơ quan báo chí tiếp cận nguồn vốn chuyển đổi số lãi suất thấp, cơ chế tài chính linh hoạt trong phát triển sản phẩm phụ trợ.
Ba là, chính sách chăm lo đời sống và giải pháp nâng cao vị thế xã hội của người làm báo. Muốn báo chí mạnh thì trước hết người làm báo phải sống được bằng nghề và tự hào với nghề. Chúng ta không thể kỳ vọng phóng viên dấn thân điều tra, phản biện chính sách, bám hiện trường, chịu rủi ro nghề nghiệp mà thu nhập chỉ ở mức cầm cự. Nhất là trong bối cảnh nhiều cơ quan báo chí đang tinh gọn bộ máy, giảm biên chế, áp lực doanh thu ngày càng lớn.
Tôi cho rằng, Nhà nước cần sớm ban hành cơ chế đặc thù bảo vệ và đãi ngộ người làm báo cách mạng, bao gồm: Chính sách phụ cấp theo lĩnh vực tác nghiệp (nội chính, kinh tế, quốc phòng, vùng sâu, vùng xa). Mở rộng chế độ bảo hiểm nghề nghiệp, hỗ trợ tâm lý và pháp lý khi tác nghiệp điều tra hoặc bị đe dọa kiện tụng. Có chỉ tiêu nhà ở, tín dụng ưu đãi, hỗ trợ đào tạo lại cho những người làm báo chuyển hướng theo mô hình mới (multimedia, dữ liệu, sản phẩm dịch vụ).
Đồng thời, cần có chiến lược nâng cao vị thế xã hội của người làm báo, đưa các nhà báo tiêu biểu vào các hội đồng phản biện chính sách, mời tham gia đối thoại với các bộ, ngành, doanh nghiệp… để nhà báo không chỉ đưa tin, mà trở thành chủ thể phản biện, cố vấn, nhà kiến tạo chính sách công từ thực tiễn.
Khi báo chí được trọng dụng, người làm báo được tôn trọng, thì kinh tế báo chí mới có điểm tựa bền vững không chỉ bằng tiền, mà bằng chính giá trị xã hội và sự thừa nhận thể chế.
Thủy Tiên
Nguồn Đầu Tư : https://baodautu.vn/kinh-te-bao-chi-trong-ky-nguyen-so-doi-moi-toan-dien-voi-tam-nhin-va-huong-di-moi-d308570.html