Việt Nam có nền văn hóa đậm đà, nhưng thiết kế kiến trúc nội thất vẫn chưa khai thác được bản sắc ấy thành lợi thế sáng tạo. Trong kỳ đầu tiên của cuộc trò chuyện, KTS Hoàng Thúc Hào - người tâm huyết với kiến trúc bản địa và triết lý “kiến trúc hạnh phúc” - đã lý giải những khoảng trống còn tồn tại trên hành trình hội nhập của thiết kế Việt.
Dưới đây là kỳ 1 cuộc trò chuyện với ông.
KTS. Hoàng Thúc Hào
- Thưa ông, trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, làm sao để nhận diện được đâu là một xu hướng kiến trúc - nội thất thực sự mang tinh thần Việt?
Muốn nói về xu hướng, trước hết phải làm rõ nội hàm của từ này. Có những xu hướng giống thời trang - tồn tại ngắn hạn, vài năm rồi lỗi mốt. Nhưng cũng có những xu hướng đủ sức định hình một thời đại, tạo ra trào lưu, rồi từ đó đi vào lịch sử kiến trúc, như chủ nghĩa hiện đại sau Cách mạng Công nghiệp hay trường phái Bauhaus.
Với kiến trúc - nội thất Việt, những xu hướng mang hơi thở bản sắc không phải là điều mới. Mỗi vùng đất, mỗi thời kỳ đều sản sinh ra những mô hình kiến trúc phản ánh rõ mối quan hệ giữa con người - tự nhiên - văn hóa. Như kiểu nhà ba gian hai chái “trước cau sau chuối” ở đồng bằng Bắc Bộ. Đó không chỉ là một cách ở, mà là lối tư duy về đất đai, về tổ tiên, về khí hậu. Khi một mô hình như thế được cộng đồng chấp nhận, gìn giữ và điều chỉnh theo thời gian, thì nó không còn là một hình thức kiến trúc đơn lẻ nữa, nó đã trở thành một biểu hiện của bản sắc.
KTS. Hoàng Thúc Hào làm việc cùng cộng sự tại văn phòng kiến trúc 1+1>2
- Tức là một xu hướng chỉ thực sự trở thành bản sắc nếu vượt qua được phép thử của thời gian và đời sống?
Đúng vậy. Một xu hướng chỉ trở thành thành xu thế và có bản sắc nếu nó trả lời được bốn yếu tố nền tảng: địa hình, khí hậu, phong tục - lối sống, và khả năng tương tác, giao lưu văn hóa.
Lấy ví dụ Hội An. Đó không phải là một sản phẩm thuần túy “gốc” Việt, mà là sự giao thoa giữa văn hóa Việt, Trung Hoa và Nhật Bản. Nhưng chính sự hòa trộn đó - được kiểm chứng qua đời sống cộng đồng trong nhiều thế hệ - đã làm nên một thể thức kiến trúc đặc trưng, bền vững và được UNESCO công nhận là di sản. Hay như người Dao ở Quản Bạ: khi chưa giao lưu thì nhà truyền thống vẫn nguyên bản. Nhưng khi làm du lịch, họ xây homestay có vệ sinh khép kín, giường ngủ…, kiến trúc lập tức chuyển hóa. Và đó là sự chuyển tiếp rất tự nhiên của kiến trúc trong dòng chảy đời sống.
Trung tâm cộng đồng xã Cẩm Thanh (Hội An) lấy cảm hứng từ hình ảnh sân trong, mái dốc phố cổ, kết hợp vườn cau, giàn dây leo đặc trưng thôn dã
- Nhưng vì sao, dù có nền tảng văn hóa phong phú, thiết kế Việt vẫn bị đánh giá là “đi sau”?
Thứ nhất là do chúng ta hay dễ hài lòng, thiếu sự kiên định. Làm được chút gì đó mới mẻ, khác biệt là sớm thỏa mãn; trong khi sáng tạo đòi hỏi sự bền bỉ, đôi khi là theo đuổi đến suốt đời. Tư duy “làm đến cùng” chưa thật sự phổ biến trong giới làm nghề.
Thứ hai là hệ thống xã hội còn thiếu đồng bộ và thiếu những nền tảng hỗ trợ. Ở các nước phát triển, công nghiệp văn hóa là một chuỗi liên kết đồng bộ: đào tạo - nghiên cứu - sản xuất - thương nghiệp - truyền thông. Còn ở ta, từng mắt xích ấy vẫn đang rời rạc. Bên cạnh đó, lực lượng sáng tạo - các nhà thiết kế, kiến trúc sư - chưa thực sự được xem là trung tâm của chuỗi giá trị, dẫn đến nhiều hệ quả như đơn giá thiết kế còn thấp, thiếu cơ chế bảo vệ quyền lợi nghề nghiệp...
Ngoài ra, văn hóa Việt coi trọng việc “nêu gương”. Vạn lời nói không bằng một hành động nêu gương cụ thể. Ví dụ như Họa sĩ Trịnh Hữu Ngọc, người sáng lập xưởng Memo - văn phòng nội thất đầu tiên ở Việt Nam từ những năm 1940 - đã nêu gương bằng việc kiên trì tạo ra những chiếc ghế kết hợp giữa tinh thần dân tộc và yếu tố hiện đại. Ông là người tiên phong đáng trân trọng. Tuy nhiên, đến nay, di sản và tinh thần dấn thân của ông vẫn chưa được ghi nhận đầy đủ trong hệ thống đào tạo hay truyền thông nghề nghiệp.
Công trình Làng Mít khai thác yếu tố “bản địa” cùng cách sử dụng vật liệu địa phương thân thiện với môi trường (gạch đất không nung, mái lá cọ)
Phân tích của KTS. Hoàng Thúc Hào cho thấy, nền thiết kế Việt Nam, dù đối mặt những thách thức, nhưng không thiếu tiềm năng sáng tạo. Vấn đề đặt ra không chỉ là nhận diện bản sắc, mà còn là làm sao để người Việt đủ tự tin kiến tạo xu hướng riêng.
Ở kỳ sau, ông sẽ tiếp tục chia sẻ về triết lý “kiến trúc hạnh phúc”, vai trò của đội ngũ sáng tạo, những ví dụ tiên phong đầy cảm hứng và tín hiệu tích cực cho thấy: người Việt hoàn toàn có thể trở thành chủ nhân xu hướng - nếu dám nghĩ dài, làm thật và đi đến cùng.
Minh Ngọc (thực hiện)