Đối tượng cầm đầu Zhang Mao bị bắt.
Trong những ngày cận Tết Nguyên đán 2025, trên tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia khu vực tỉnh Tây Ninh, Ban chuyên án đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp nghiệp vụ, bắt giữ Zhang Mao (1982, người Trung Quốc) là một trong những kẻ chủ mưu và 9 đối tượng người Việt Nam, gồm: Phạm Trung Kiên, Hà Thu Thủy, Trần Diệu Chương, Bùi Thị Huyền Điệp, Dương Văn Chuẩn, Nguyễn Tiến Hùng, Nguyễn Quang Tịnh, Nguyễn Thị Ngọc Ánh, Nguyễn Hữu Tư.
Theo lời kể của các đối tượng, hằng ngày họ bị Công ty HD889 buộc phải làm việc từ 10-12 tiếng đồng hồ, theo ca đêm hoặc ngày tùy theo đối tượng, thủ đoạn lừa đảo nhắm tới để đạt hiệu quả cao nhất. Với từng bộ phận cũng vậy, chúng chia ca theo nhóm, mỗi nhóm quản lý, theo dõi số lượng tài khoản nhất định, tới ca làm phải tới ngồi và nhận dòng tiền từ đối tượng, bộ phận đã mặc định.
Ví dụ, bộ phận xuất nhập khoản của Công ty HD889 nằm ở 3 tầng giữa của một tòa nhà 7 tầng, có nhiều nhóm (mỗi nhóm từ 4-10 người Việt, do 1 người Trung Quốc quản lý), ở đây chỉ làm một việc là nhận và chuyển tiền đi. Tương tự là các nhóm ở bộ phận chăm sóc khách hàng, đổi tiền, dẫn dụ khách hàng sập bẫy…
Ở mỗi tòa nhà, mỗi tổ chức lừa đảo đều có đầy đủ các bộ phận từ lừa đảo, nhận tiền lừa đảo, “rửa” tiền lừa đảo, nhưng nhân viên bộ phận xuất nhập khoản thường móc nối, chuyển chéo qua nhau, làm cho dòng tiền phức tạp hơn. Mỗi nhân viên người Việt sang làm ở bộ phận xuất nhập khoản thường có hàng chục tài khoản, được giao định mức số tiền phải “rửa” mỗi ngày.
Tại sào huyệt của các tổ chức lừa đảo, việc cho thuê, cho mượn tài khoản mục đích để “rửa” tiền khá phổ biến. Việc móc nối nhận “rửa” tiền cũng đơn giản, cứ kết nối được tài khoản nào thì đối tượng nhờ, thuê, để chuyển dòng tiền đi loạn xạ. Đáng nói, các đối tượng không biết nhau, chỉ giao dịch trên không gian mạng, không có gì ràng buộc, chỉ dựa vào uy tín mà “hợp tác” qua lại. Đối tượng người Việt khi qua Campuchia hoạt động lừa đảo đều giấu thông tin thật của mình, sử dụng bằng biệt danh, vì vậy ngay cả người làm cùng bộ phận cũng không biết nhau, chứ chưa nói đến bộ phận khác, dù cùng một tổ chức lừa đảo.
Đối tượng Bùi Thị Huyền Điệp kể rằng, khi vào khu vực làm việc công ty cấm mang theo điện thoại cá nhân, tất cả làm việc bằng điện thoại, máy tính được trang bị tại chỗ. Quá trình làm việc có người quản lý chặt chẽ, không để hình ảnh nơi làm việc lọt lộ ra ngoài. Sau ca làm việc toàn bộ dữ liệu, tin nhắn, hình ảnh trên thiết bị tại nơi làm việc của các nhân viên bị xóa hết. Hết ca, ra khỏi nơi làm việc, nhân viên bị kiểm soát chặt chẽ sau đó bị dồn về nơi ăn ở rất lộn xộn tại 2 tòa nhà trong khu tự trị Kim Sa.
Hầu hết các đối tượng người Việt bị bắt trong chuyên án khi được hỏi đều cho biết hoàn cảnh khó khăn, nghe lời mời qua Campuchia làm việc tự do, “việc nhẹ lương cao”, mỗi tháng 700-900 USD mà không biết cụ thể làm việc gì, ở đâu. Khi qua Campuchia thì bị đưa vào các khu tự trị, muốn ra phải tốn tiền chuộc từ 1-3 ngàn USD. Vì thế, ban đầu vào các khu tự trị xác định phải làm việc lừa đảo theo yêu cầu của ông chủ, không phù hợp bộ phận này thì chuyển sang bộ phận khác, nếu bỏ trốn bị bắt lại, đánh đập.
Cán bộ điều tra lấy lời khai các đối tượng hoạt động trong tổ chức lừa đảo ở khu tự trị Kim Sa 2.
Nếu không có tiền chuộc, nhưng buộc phải về Việt Nam thì phải gọi người nhà sang thế chỗ ở lại. Có trường hợp đối tượng phải đưa mẹ sang ở thế để được về 2 ngày. Từ câu chuyện của các đối tượng là lời cảnh tỉnh cho mọi người, không nên nghe theo những lời dụ dỗ, hứa hẹn làm “việc nhẹ lương cao” ở nước ngoài để bị ép buộc lừa đảo đồng bào mình, vướng vào vòng lao lý.
Nhìn lại quá trình đấu tranh chuyên án cho thấy khó khăn lớn nhất là việc truy tìm các đối tượng lừa đảo ở trong các khu tự trị khép kín và lên phương án bắt giữ chúng. Đối tượng người Việt qua Campuchia bằng đường tiểu ngạch không để lại dấu vết, thông tin gì, trong khi khu vực thành phố biên giới Bavet quá nhiều khu tự trị khép kín, khó xác định được các đối tượng ở khu nào mà chỉ dựa vào tên tuổi, hình ảnh. Chưa kể, khi xác định được nơi ở của đối tượng thì việc lên phương án bóc gỡ đối tượng nào trước, đối tượng nào sau, để không “bứt dây động rừng” là bài toán khó.
Theo Ban chuyên án, mục tiêu phải bắt hết đối tượng liên quan, kể cả đối tượng cầm đầu người nước ngoài, vì thế phải có phương án chu toàn, đưa ra các lý do phù hợp với thực tiễn khách quan, đặt đối tượng vào tình thế bị động, bất ngờ. Trên cơ sở đó, Ban chuyên án đã triển khai đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ, phối hợp với các lực lượng có liên quan, bắt giữ thành công các đối tượng.
Theo Ban chuyên án, tổ chức lừa đảo này hoạt động tinh vi, ngoài lãnh thổ, móc nối chuyển hóa dòng tiền đan xen phức tạp. Mỗi tối tượng ở một bộ phận, ở một nơi, có vai trò khác nhau, liên lạc với nhau trên máy tính qua telegram với nickname ảo, chưa bao giờ gặp nhau… nên rất khó chứng minh tội phạm. Sau khi bị bắt, đưa về Đà Nẵng, các đối tượng vẫn ngoan cố không thừa nhận hành vi phạm tội. Tuy nhiên, quá trình đấu tranh chuyên án, trinh sát đã xâm nhập bên trong tổ chức lừa đảo, lấy được dữ liệu lừa đảo của công ty HD889, chứng minh được vai trò, hành vi phạm tội của từng đối tượng, vì thế buộc các đối tượng phải cúi đầu nhận tội.
Hành trình đấu tranh, đột kích tận sào huyệt của tổ chức lừa đảo quốc tế ở nước ngoài, bắt giữ các đối tượng liên quan là hành trình cam go, hiểm nguy nhưng đã thể hiện tinh thần đấu tranh đến cùng với tội phạm, bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân.
HẢI QUỲNH