Từ ký ức đau thương ấy, một người lính khác bước vào cuộc đời bà Khơi, cùng bà dựng nên một mái ấm đầy tình thương và tình đồng đội. Đó là câu chuyện của ông Hoàng Hữu Trạch – người chồng hiện tại, người lính thứ ba trong câu chuyện “Ba người lính và hạnh phúc của một đại gia đình”, như đã nêu ở bài trước.
Rót trà mời khách, ông Trạch chậm rãi kể, năm 1968, khi còn ở mặt trận, ông nhận tin dữ – người vợ hiền, một nữ du kích ở quê, đã đột ngột qua đời vì sốt xuất huyết. Hạnh phúc của họ ngắn ngủi. Cưới năm 1965 sau nhiều năm thương nhau, nhưng suốt ba năm làm vợ chồng, ông Trạch đóng quân ở Quảng Bình, thường xuyên hành quân vào Bắc Quảng Trị chiến đấu nên hầu như xa cách.
Khoảnh khắc ấm áp của ông Hoàng Hữu Trạch và bà Phan Thị Biển Khơi bên những đứa cháu ruột tại ngôi nhà ở Tổ dân phố 8, phường Đồng Thuận.
Hai con kịp chào đời thì mẹ mất; trước đó, chúng chỉ vài lần được ba bồng bế khi ông tranh thủ về hậu cứ sau những trận đánh ở Hà Thanh, Hà Thượng – vùng giáp ranh hàng rào điện tử McNamara. Hiểu hoàn cảnh ấy, cấp trên và đồng đội động viên ông tiếp tục công tác tại Tỉnh đội Quảng Bình.
Sau này, khi đã có mái ấm mới và các con được người vợ cùng cảnh ngộ thương yêu chăm sóc, ông vào công tác ở Đông Hà (Quảng Trị), rồi Thừa Thiên Huế, góp sức khắc phục hậu quả chiến tranh, dựng xây lại những miền quê bị bom đạn tàn phá. Năm 1989, khi tách tỉnh Bình Trị Thiên thành Thừa Thiên Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, ông về lại Quảng Bình, lần lượt giữ chức Chính trị viên Thị đội Đồng Hới, rồi Chính trị viên Đoàn Thương binh 581 (đóng tại xã Quang Phú). Sau một thời gian, ông trở lại Thị đội Đồng Hới, tiếp tục đảm nhiệm chức vụ cũ. Trước khi nghỉ hưu cuối năm 1991, ông là Thượng tá, Phó Chỉ huy trưởng Trường Quân sự tỉnh Quảng Bình.
Trở lại với câu chuyện về liệt sỹ Lê Binh Chủng – người đã dũng cảm chiến đấu và hy sinh trong 81 ngày đêm mùa hè đỏ lửa 1972 để bảo vệ Thành cổ Quảng Trị. Cuối năm 2000, trong lúc thi công hệ thống thoát nước tại Thành cổ, công nhân phát hiện một hầm trú ẩn chứa 5 bộ hài cốt. Một trong số đó vẫn ghì chặt chiếc xắc cốt với nhật ký, sổ tay đảng viên và ba lá thư – trong đó có thư của vợ anh, chị Phan Thị Biển Khơi. Sau này, người chiến sĩ ấy được xác định chính là liệt sĩ Lê Binh Chủng. Những trang giấy nằm dưới lòng đất suốt 28 năm, lại qua trận lũ lớn năm 1999, đã mục nát, chữ nhòe đi; lực lượng chức năng phải cẩn trọng gỡ từng tờ để ghép lại ký ức. Thế nhưng, trên những trang giấy ố vàng ấy, từng nét chữ của chị Biển Khơi vẫn còn run rẩy hơi thở thời bom đạn. Lá thư ngày 20/4/1972 mang nỗi buồn dồn nén, chị kể chưa được nhà chồng nhận đứa bé vì lễ cưới diễn ra khi bên nội chưa kịp hay biết; chị khóc vì con nhiều đêm gọi ba mà không ai trả lời. Còn lá thư ngày 15/5/1972 lại chan chứa niềm tin: tin thắng trận Trị Thiên, tin nhân dân vùng lên, tin chồng mình giữa hàng ngũ những người chiến thắng. “Em và con gửi tới anh cái hôn trìu mến” – dòng chữ cuối như vết mực không bao giờ phai.
Sau khi cất bốc hài cốt, 5 liệt sĩ được trang trọng truy điệu và an táng tại Nghĩa trang thị xã Quảng Trị. Ngay sau khi cơ quan chức năng công bố thông tin để tìm kiếm thân nhân, một cô giáo trẻ quê Nghệ An đang dạy học ở thị xã Quảng Trị đã nhờ đồng nghiệp cùng quê dò hỏi về anh bộ đội kể trên. Không ngờ, chính cô bạn ấy là người cháu họ của liệt sĩ Lê Binh Chủng. Gia đình liệt sĩ Chủng khi hay tin đã mừng rơi nước mắt, vội tìm vào Quảng Trị. Điều cảm động nhất là trong cuộc trở lại ấy, người nóng lòng và tự thúc giục mình hơn cả chính là cựu chiến binh Hoàng Hữu Trạch – người chồng hiện nay của bà Biển Khơi. Ông nhớ lại: “Ngay khi hay tin, tôi mừng lắm, suốt đêm đó không ngủ, chỉ trông trời sáng để cùng gia đình anh Chủng vào Quảng Trị. Tôi đi không chỉ là nghĩa vụ mà còn là tình cảm của một người lính. Người còn sống bao giờ cũng đau đáu nỗi niềm, mong muốn tìm bằng được hài cốt đồng đội để đưa họ trở về với người thân sau bao năm mòn mỏi chờ đợi”.
Bà Phan Thị Biển Khơi thắp hương cho chồng – liệt sĩ Lê Binh Chủng – trong gian thờ gia đình.
Những năm qua, cứ đến ngày giỗ liệt sĩ Lê Binh Chủng, bất kể mưa gió hay ốm đau, ông Hoàng Hữu Trạch đều tìm cách ra tận Quỳnh Mỹ, Quỳnh Lưu (Nghệ An). Với ông, liệt sĩ Lê Binh Chủng không chỉ là đồng đội mà còn là người thân yêu ruột thịt trong đại gia đình. Sau ngày nên duyên, ông và bà Phan Thị Biển Khơi có với nhau 3 người con: Hoàng Nam (sinh 1976, thợ sửa chữa ôtô), Hoàng Hữu Chí (SN 1980, thợ mộc) và Hoàng Hữu Thắng (SN 1986, công nhân rà phá bom mìn thuộc Tổ chức phi chính phủ MAG tại Quảng Trị). Cùng với Lê Quảng An (SN 1970, con trai liệt sĩ Lê Binh Chủng) và hai con của ông Trạch với người vợ trước (SN 1966 và 1968), cả đại gia đình hiện quây quần trong Tổ dân phố 8, phường Đồng Thuận (Quảng Trị). Hiện ông bà Hoàng Hữu Trạch và Phan Thị Biển Khơi sống cùng vợ chồng người con trai út Hoàng Hữu Thắng. Đến nay, hai ông bà đã có tổng cộng 16 người cháu nội, ngoại và chắt – một mái ấm đông vui, ấm áp, thấm đẫm tình đồng đội và nghĩa gia đình.
Bà Phan Thị Biển Khơi kể rằng, vợ chồng người con trai đầu Lê Quảng An – Trần Thị Huệ ở cách nhà chỉ 100m, chủ yếu chăn nuôi, trồng trọt. Ngoài ra, An còn làm Tổ phó dân phố, phụ trách an ninh, trật tự. Các con của An đã trưởng thành: Lê Thị Mỹ Bình đang học năm 4, Đại học Y Dược Huế – Đại học Huế; Lê Thị Mỹ Quỳnh vừa vào năm 1 ngành Sư phạm Hóa, Đại học Sư phạm – Đại học Huế. Vì con cái học xa tốn kém, các em của An mỗi tháng đều tự nguyện góp thêm chút tiền để anh chị lo việc học cho các cháu. Bà cười hiền: “Hai đứa con của ông nó còn thương thằng An hơn tôi và ba đứa con chung nữa”. Một câu nói mộc mạc, nhưng đủ soi tỏ ý nghĩa của tình đồng đội khi đi qua chiến tranh: không thể thay thế quá khứ, nhưng có thể nâng đỡ hiện tại. Trong mái ấm quây quần ở Tổ dân phố 8, phường Đồng Thuận, ký ức về liệt sĩ Lê Binh Chủng được gìn giữ bằng sự tử tế của ông Hoàng Hữu Trạch và tình thương của cả đại gia đình. Ở đó, những đứa trẻ lớn lên trong bình yên; và những người lính – bằng cách này hay cách khác – vẫn nắm tay nhau bước tiếp, sau bão đạn chiến tranh.
Thanh Bình