“Căn bệnh” này rất nguy hiểm và được biến hóa rất tinh vi trong thực hiện nguyên tắc, quy chế, quy định, quy trình tổ chức Đảng. “Căn bệnh” này làm chia rẽ nội bộ, gây mất đoàn kết, mất niềm tin của mỗi cán bộ, đảng viên vào tổ chức.
Do vậy, nhận diện và kiên quyết đấu tranh, loại bỏ “căn bệnh” nguy hiểm này, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao sức chiến đấu, uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng là vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Ở Việt Nam, ý thức cộng đồng làng xã hình thành rất sớm, điều đó được thể hiện trong thực tế chống lại thiên nhiên, thú dữ, hay giặc ngoại xâm. Người với người sống trong một quần thể làng xã đã tạo nên sức mạnh tập thể, lâu dần trở thành một nét văn hóa. Tuy nhiên, từ những ưu điểm đó, nhiều người đã biến nét văn hóa truyền thống đó trở nên “méo mó”, “dị dạng”, trở thành công cụ để biểu dương quyền lực, làm việc theo phương châm “nhất thân, nhì quen”, “giọt máu đào hơn ao nước lã”, trở thành “căn bệnh” trong Đảng, rất tai hại cho việc hoạt động, phát triển của Đảng.
Có một thực tế nhiều năm về trước, trong một làng, dòng họ nào đông người sẽ chiếm ưu thế trong các cuộc bầu cử, dễ có người trúng cử các chức vụ lãnh đạo, quản lý bởi khi bỏ phiếu họ quan tâm đầu tiên đến người thân của mình sau đó mới đến năng lực, phẩm chất. Không chỉ có vậy, trước khi bầu cử, ban tổ chức phát cho người bầu bản trích ngang lý lịch ứng cử viên để họ nắm được tiểu sử ứng cử viên, trong đó có mục “quê quán”. Nhiều người vin vào đó để có thêm thông tin loại bỏ những người “ngoại lai”. Hay trong một cơ quan công sở, đã lấy câu “địa phương lớp hai còn hơn ngoại lai đại học” để trở thành tiêu chí bình bầu. Sau các cuộc bầu cử, họ thường tính xem làng ta hay huyện ta, tỉnh ta có bao nhiêu người trúng cử. Ngoài ra, cùng quê hương thường dễ thông cảm cho nhau, bỏ qua cho nhau khuyết điểm, thiếu sót vì tình “đồng hương”, nếu không sẽ bị xem là bới móc, “gà nhà đá nhau”. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện những “lỗ hổng” và hạn chế, yếu kém trong công tác cán bộ. Trong đó, “cục bộ”, “địa phương” là những tư tưởng, thậm chí là những “căn bệnh” rất nguy hiểm, gây mất đoàn kết trong Đảng, làm hỏng đội ngũ cán bộ, dẫn đến suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng. Điều đó được thể hiện đậm nét trong tư tưởng “một người làm quan, cả họ được nhờ”, “hậu duệ”, “đồ đệ”, “địa phương chủ nghĩa”, “lợi ích nhóm”, “cánh hẩu”…
Từ những điều đó, đã dẫn đến việc xem xét, quy hoạch, bổ nhiệm, sử dụng cán bộ sai lệch, nảy sinh cơ hội, tham nhũng và nhiều căn bệnh khác nguy hại cho Đảng, cho tổ chức cơ sở Đảng... kéo theo nhiều vấn đề nảy sinh trong quá trình sinh hoạt Đảng.
Dễ nhận thấy nhất đó là, những hành vi trái nguyên tắc, vi phạm dân chủ, đề cao cá nhân, độc đoán, chuyên quyền, kéo bè, kéo cánh, thậm chí biến cơ quan thành “gia đình trị”, để rồi xuất hiện “cấp ủy nội tộc”, “chi bộ dòng họ” ...
Một số biểu hiện của “cục bộ”, “địa phương” có thể dễ dàng nhận thấy như:
Thứ nhất, những cán bộ, đảng viên khi giữ chức vụ cao trong tổ chức chính quyền hay cơ quan Đảng, nhưng lại không quan tâm đến lợi ích chung của tập thể, tổ chức Đảng, của đất nước mà lại sử dụng quyền lựa chọn để tuyệt đối hóa lợi ích của cá nhân, địa phương, đơn vị mình trong các hoạt động; gây ra nhiều tác hại to lớn ảnh hưởng đến sự lãnh đạo thống nhất, đoàn kết trong Đảng; sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. “…thấy lợi ích bộ phận của mình, không thấy lợi ích của toàn thể, muốn đem lợi ích của toàn thể phục tùng lợi ích của bộ phận mình” (Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG-ST, H. 2011,T.5;Tr.276) .
Cục bộ địa phương biểu hiện rõ nhất trong việc thực hiện công tác cán bộ, trên thực tế một số địa phương, cơ quan, đơn vị, từ cục bộ, địa phương, bè phái đã xuất hiện những vấn đề nhạy cảm như lấy phiếu quy hoạch, lấy phiếu tín nhiệm, phiếu đánh giá, phiếu bầu cử... trong công tác nhân sự, bầu cử tại đại hội hay trong hội nghị biểu quyết quyết định đầu tư các dự án quan trọng. Đây là “mảnh đất màu mỡ” cho chủ nghĩa cá nhân phát triển, chủ nghĩa cơ hội lộng hành.
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ rõ: Cục bộ, bè phái trong công tác cán bộ là căn bệnh rất nguy hiểm, một trong những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng, bản chất nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Thứ hai, cán bộ, đảng viên lãnh đạo trong tổ chức tự ý hành động không xin ý kiến, chỉ thị của cấp trên, độc đoán, chuyên quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” đã chỉ rõ đó là căn bệnh địa phương chủ nghĩa, vô chính phủ, vô kỷ luật. Từ đó dẫn đến những sai lầm, ảnh hưởng đến lợi ích toàn cục của Đảng, của dân tộc. Người nhấn mạnh: “Trước khi làm, không xin chỉ thị. Khi làm rồi, không gửi báo cáo. Nhiều địa phương mắc phải cái bệnh ấy. Họ không hiểu rằng: thế là:
- Vô kỷ luật, vô chính phủ, địa phương chủ nghĩa,
- Trái nguyên tắc “tư tưởng nhất trí, hành động nhất trí” (Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG-ST, H. 2011,T.6;Tr.416).
Thứ ba, lục đục, nội bộ, chia rẽ, mất đoàn kết, từ đó tạo thành “bè, cánh” hạ bệ nhau trong tập thể, cơ quan, tổ chức, đơn vị. Trên thực tế, các cơ quan, đơn vị, địa phương khi có chuyện lục đục, nội bộ chia rẽ sẽ là nguồn cơn để thôi thúc các thành viên co cụm lại để “bảo vệ nhau”. Từ đó, khi xuất hiện những biểu hiện cục bộ, địa phương của nhóm này thì những người khác nhìn vào tự khắc lại phải tìm cho mình đội, nhóm riêng nhằm tự vệ, bảo vệ lợi ích cá nhân mình. Từ đó thổi bùng lên sự mất đoàn kết, chia rẽ lại càng chia rẽ. Tạo thành vòng luẩn quẩn mất đoàn kết rất đáng lo ngại.
Thứ tư, biểu hiện của cục bộ, địa phương còn thể hiện trong việc “coi thường người trẻ”, “không chấp nhận người ngoại lai”.
Trên thực tế đã có trường hợp lãnh đạo trẻ tuổi được điều động từ địa phương khác khi xung phong về một xã nọ đã từng tâm sự rằng: “Về đây công tác, em không ngại khó, ngại khổ, không sợ bất đồng ngôn ngữ, chỉ ngại nhất cán bộ và người dân địa phương coi mình là “dân ngoại lai”. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, đã từng có lần “lãnh đạo trẻ” ấy từng vướng phải những câu hỏi kiểu như: “Chả nhẽ một xã mấy nghìn dân không chọn được một cán bộ mà phải cử cán bộ từ xa về?” hay “Từ địa phương khác về chắc gì đã am hiểu phong tục, tập quán mà lãnh đạo, chỉ đạo?…”, ngoài ra khi thực hiện công tác lãnh đạo, chỉ đạo, vì tuổi còn trẻ nên những cán bộ “già” về tuổi đời, tuổi nghề lại lôi “bệnh kinh nghiệm” ra dọa, họ cho rằng những gì làm đã làm trước đã chính xác tuyệt đối, do vậy họ ngại thay đổi, thậm chí nhiều trường hợp còn cho rằng không cần phải thay đổi, bởi “chỉ cần làm đến một mức độ nào đấy, bởi có làm thêm thì lương cũng không tăng”,…Nhận thức như vậy nên đương nhiên, họ cũng không dễ thừa nhận trình độ, hay chịu sự chỉ đạo của người trẻ, mặc dù họ là cấp dưới.
Từ những biểu hiện nêu trên của “căn bệnh” cục bộ, địa phương - có thể thấy rằng chúng gây ra nhiều mối nguy hại như:
Một là, ở phạm vi nhỏ thì cản trở sự phát triển của một hoặc vài cá nhân, phạm vi lớn thì ảnh hưởng đến lợi ích của quốc gia, dân tộc. Từ những quyết sách mang tính cá nhân sẽ là mối nguy hại, từ việc nhỏ dẫn đến nguy hại cho việc lớn.
Hai là, từ những chỉ đạo mang tính cục bộ, địa phương sẽ dẫn đến hành vi trái nguyên tắc, vi phạm dân chủ, thậm chí dẫn đến tình trạng vi phạm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Ví dụ điển hình có thể thấy đó là giữa hai địa phương sáp nhập với nhau thì xảy ra tình trạng kèn cựa đấu tranh giữa các địa phương. Làm cho tê liệt công tác cán bộ, mất đoàn kết, xảy ra tình trạng trống đánh xuôi kèn thổi ngược trong Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: “Không nên nghĩ rằng tỉnh này bị nhập vào tỉnh kia. Sự thật là hai tỉnh sáp nhập với nhau thành một tỉnh lớn của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó là một sự mở rộng tốt đẹp. Sáp nhập tổ chức là về hình thức. Cần phải nhất trí về tư tưởng, về hành động, về tình cảm”. Những biểu hiện của căn bệnh này gây ra sự mất đoàn kết, chia rẽ nội bộ… Người viết: “Nó làm mất sự thân ái, đoàn kết giữa đồng chí. Nó gây ra những mối nghi ngờ”.
Ba là, không chỉ có vậy, “căn bệnh” này còn gây ra chia rẽ nội bộ, gây mất đoàn kết, mất niềm tin của cán bộ vào tổ chức, xa rời quần chúng nhân dân, làm Đảng mất nhân tài. Đây cũng chính là căn nguyên thúc đẩy “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm mất sức chiến đấu, vai trò lãnh đạo của các tổ chức đảng, làm suy yếu Đảng và đội ngũ cán bộ của Đảng… Từ đó tạo cơ hội để các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc, bôi nhọ, phủ nhận thành tựu của công tác xây Đảng nói chung, công tác cán bộ của Đảng ta nói riêng.
Bốn là, từ tư tưởng cho đến hành động của “căn bệnh” sẽ làm nảy sinh các hành vi: xu nịnh, tâng bốc, bao che khuyết điểm, dìm người tốt, người thẳng thắn, trung thực; thậm chí vi phạm nguyên tắc trong bầu cử, bỏ phiếu tín nhiệm bằng các hành vi vận động hành lang, vận động không bầu cho cán bộ luân chuyển từ địa phương khác đến, rỉ tai, mua chuộc, ép buộc, đe dọa những người không a dua theo; cất nhắc, bổ nhiệm những người thân quen không đủ điều kiện, tiêu chuẩn, uy tín, rồi bao biện “cho nợ tiêu chí”, “bồi dưỡng sau, vừa làm vừa bồi dưỡng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo: “Nó làm hại đến sự thống nhất. Nó làm Đảng bớt mất nhân tài và không thực hành được đầy đủ chính sách của mình. Nó làm mất sự thân ái, đoàn kết giữa đồng chí. Nó gây ra những mối nghi ngờ”.
Cao Thiên - Anh Ngọc