Kỷ lục tiêu diệt tàu ngầm Nhật của Hải quân Mỹ

Kỷ lục tiêu diệt tàu ngầm Nhật của Hải quân Mỹ
6 giờ trướcBài gốc
Những chiến binh chống tàu ngầm
Vào đầu Thế chiến II, Vương quốc Anh và các đồng minh trong liên minh chống Hitler cảm thấy cần thiết phải có các tàu chiến chống ngầm để hộ tống các đoàn tàu và chiến đấu với tàu ngầm. Trên Đại Tây Dương, các tàu chiến nhỏ và tàu khu trục cũ từ Thế chiến I được sử dụng cho mục đích này. Tuy nhiên, tất cả chúng đều không thể đối phó với tàu ngầm. Các đồng minh cần một loại tàu chiến chống ngầm mới: nhanh, bền, vũ trang tốt, và đồng thời phải rẻ và dễ dàng chế tạo. Một dự án tàu chiến mới, thuộc loại tàu khu trục hộ tống, đã đáp ứng tất cả những yêu cầu này.
Trong suốt thời gian chiến tranh, Mỹ đã chế tạo hơn 500 tàu chiến, trong đó 1/5 là tàu khu trục lớp "Buckley". Những con tàu dài 90 mét này có thể đạt tốc độ lên tới 23 hải lý một giờ. Ngoài pháo, ngư lôi và bom sâu truyền thống, chúng còn được trang bị thêm các máy phóng bom Hedgehog.
Tàu khu trục England.
Máy phóng bom có thể bắn một lúc 24 quả bom nhỏ có ngòi nổ tiếp xúc, mang lại nhiều ưu điểm hơn so với các loại bom thủy tĩnh thông thường. Thứ nhất, sau khi bắn một loạt Hedgehog, có thể thấy ngay cuộc tấn công thành công hay không: nếu không có tiếng nổ thì coi như trượt mục tiêu. Thứ hai, việc không có tiếng nổ giúp dễ dàng thực hiện đợt tấn công tiếp theo, vì liên lạc âm thanh dưới nước không bị gián đoạn như sau khi thả bom thông thường. Thứ ba, các quả bom của Hedgehog chỉ mất 7 giây để đạt độ sâu 60 mét, vì vậy, nếu không nghe tiếng nổ, tàu ngầm không thể tránh được. Cuối cùng, nếu một quả bom trúng mục tiêu, tiếng nổ của nó sẽ kích nổ các quả bom còn lại gần đó, khiến cho tàu ngầm không có cơ hội sống sót.
Các tàu khu trục lớp Buckley đã tham gia chiến đấu không chỉ ở Đại Tây Dương mà còn ở Thái Bình Dương. Tại đây, tàu khu trục England do Trung úy Walton Pendleton chỉ huy trở nên nổi tiếng với các chiến công tiêu diệt tàu ngầm Nhật Bản.
Mùa xuân năm 1944, con tàu này thuộc biên chế của sư đoàn khu trục hạm số 40, tạm thời đóng quân tại đảo Florida, gần Guadalcanal. Đến thời điểm đó, England mới tham gia chiến đấu được hai tháng, chủ yếu là bảo vệ các đoàn tàu vận tải. Vì vậy, ngày 18 tháng 5, khi Trung úy Pendleton nhận lệnh ra khơi với các tàu khu trục cùng lớp Rabi và George để tiêu diệt một tàu ngầm Nhật Bản gần đảo Bougainville, đảo lớn nhất trong quần đảo Solomon, thủy thủ đoàn của England coi đây là cơ hội để thoát khỏi nhiệm vụ hộ tống đơn điệu.
Đô đốc Ernest Joseph King.
Và tình báo đã báo cáo chính xác
Vào ngày 13/5/1944, tình báo vô tuyến điện tử của Mỹ đã nghe lén và giải mã được một thông tin từ tàu ngầm I-16 của Nhật Bản, cho biết thời gian dự kiến tàu ngầm sẽ đến Bougainville. Chiếc tàu ngầm lớn này là một chiến binh kỳ cựu trong đội tàu ngầm Nhật Bản và đã nổi tiếng với những thành tích tại Ấn Độ Dương. Ví dụ, ngày 30/5/1942, khi đang ở gần Madagascar, nó đã thả một tàu ngầm nhỏ với hai thủy thủ vào cảng và tấn công các tàu chiến Anh bằng ngư lôi, làm hư hại chiếc thiết giáp hạm Ramillies và đánh chìm một tàu chở dầu. Vài ngày sau đó, I-16 đã đánh chìm ba tàu buôn bằng ngư lôi. Nhưng đó là chuyện quá khứ, còn giờ đây, chiếc tàu ngầm này được sử dụng như một tàu vận tải để chuyển 75 bao gạo tới đội quân đang bị đói ở Bougainville.
Thông tin về tàu ngầm đã được chuyển cho Bộ chỉ huy Hạm đội 3 của Mỹ, và họ đã cử ba tàu khu trục hộ tống từ Florida để tìm kiếm tàu ngầm này. Ngày 19/5, máy bay do thám Mỹ đã phát hiện I-16 và chuyển tọa độ của nó cho các “thợ săn". Các tàu England, Rabi và George đã đến khu vực được chỉ định, xếp thành đội hình và bắt đầu tìm kiếm kẻ thù.
Lúc 13h25’, Trung úy Pendleton đã liên lạc được với tàu ngầm và sau khi thông báo cho các đồng đội, họ bắt đầu tấn công. Sau loạt súng thứ hai của Hedgehog, hai tiếng nổ vang lên và bong bóng khí nổi lên trên mặt nước. Tuy nhiên, con tàu vẫn sống sót, và England phải tiếp tục bắn thêm ba loạt nữa, sau đó vang lên một tiếng nổ mạnh dưới nước, khiến một số thủy thủ ở đuôi tàu khu trục bị hất văng xuống.
Ngay sau đó, một vệt dầu loang ra trên mặt nước, và các mảnh vỡ khác nhau từ dưới sâu nổi lên, trong đó các thủy thủ Mỹ tìm thấy một thùng cao su có ghi chữ tượng hình, bên trong là một bao gạo. Như vậy là tàu ngầm I-16 đã bị đánh chìm - nạn nhân đầu tiên của England.
Đồng thời, tình báo Mỹ đã thu thập được thông tin từ các nguồn của đối phương rằng người Nhật bắt đầu hình thành một “bầy sói” gồm bảy tàu ngầm giữa các đảo Admiralty, phía bắc New Guinea và Truk (quần đảo Caroline), chờ đợi sự xuất hiện của các tàu sân bay Mỹ.
Tất cả các tàu ngầm trong đội "bầy sói" đều là tàu ngầm hạng khách sạn, ban đầu được chế tạo để phòng thủ bờ biển. Trong chiến tranh, chúng có thể tiêu diệt các tàu buôn một cách hiệu quả, nhưng người Nhật đã sử dụng chúng để đối đầu với các tàu chiến, và trong cuộc chiến này, tàu ngầm khách sạn tỏ ra không hiệu quả.
Trung úy Walton Pendleton.
Trận chiến trên đại dương
Vào buổi chiều ngày 20/5, England, George và Rabi lên đường tiêu diệt tàu ngầm Nhật Bản. Rạng sáng ngày 22/5, khi đang ở phía bắc quần đảo Admiralty, qua radar các tàu Mỹ đã phát hiện một tàu ngầm Nhật Bản đang nổi trên mặt nước.
Dự định tấn công tàu ngầm bằng pháo, các tàu khu trục đã tiến lại gần hơn, sau đó, George đã bật đèn pha để chiếu sáng tàu ngầm Nhật Bản. Đây là một sai lầm: con tàu Nhật đã kịp lặn xuống nước trước khi bị tấn công. Sau đó, các tàu khu trục bắt đầu tìm kiếm kẻ thù bằng máy dò âm dưới nước (sonar) và đã thiết lập liên lạc được với nó lúc 4:15. Ngay sau đó, họ đã bắn hai loạt Hedgehog, nhưng không trúng mục tiêu.
Thế nhưng, loạt thứ ba do Trung úy Pendleton bắn vào lúc 4:44 lại thành công: đầu tiên, ba tiếng nổ nhỏ vọng lên từ dưới nước, sau đó là một tiếng nổ cực mạnh khiến các tàu khu trục rung chuyển. Khi trời sáng, trên mặt biển xuất hiện vệt dầu loang và các mảnh vỡ, chứng tỏ tàu ngầm đã bị tiêu diệt.
Sáng hôm sau, các tàu khu trục nhận được tín hiệu từ máy bay do thám: một tàu ngầm Nhật Bản khác đang ở phía tây bắc Kavieng. Đó là tàu RO-104 của Trung úy Izubuchi. Khi tiến lại gần, Rabi ngay lập tức phát hiện tàu ngầm Nhật Bản qua radar. Tuy nhiên, nhận ra tín hiệu radar của Rabi, Izubuchi đã nhanh chóng lặn xuống. Sau đó, tàu khu trục đã thực hiện 4 cuộc tấn công nhưng RO-104 đã di chuyển khéo léo, đồng thời sử dụng các xung âm để gây nhiễu và làm mù radar của Rabi.
George cũng không thành công - 5 loạt đạn của nó đều không trúng đích. Cuối cùng, chỉ có Trung úy Pendleton mới tiêu diệt được Izubuchi. Ban đầu, ông không tấn công tàu ngầm Nhật Bản để nhường chỗ cho các đồng đội. Nhưng khi thấy họ không thành công, Pendleton đã bắn hai loạt Hedgehog vào tàu ngầm. Các thủy thủ nghe thấy những tiếng nổ trên tàu England. Ngay sau đó, vết dầu loang và các mảnh vỡ nổi lên trên mặt nước, chứng tỏ RO-104 cùng toàn bộ thủy thủ đoàn đã bị tiêu diệt.
Sau chiến thắng giành được, các tàu khu trục tiếp tục tìm kiếm kẻ thù trong cùng khu vực. May mắn đã mỉm cười với họ vào những giờ đầu của ngày 24/5, khi tàu George phát hiện tàu ngầm RO-116 qua radar. Tuy nhiên, khi nhận ra mình đã bị phát hiện, tàu ngầm Nhật liền lặn xuống nước. Ngay lập tức, tàu England lao vào tấn công, nhưng như sau này viên chỉ huy tàu thừa nhận, "đây là chiếc nhanh nhẹn nhất mà chúng tôi từng chạm trán".
RO-116 thực hiện các động tác đột ngột, bẻ lái và sử dụng các phương pháp gây nhiễu sonar giống như tàu ngầm RO-104, khiến cho các tàu săn mồi bị lúng túng một thời gian. England đã bắn hụt hai lần trước khi tiêu diệt được tàu ngầm bằng vũ khí Hedgehog. Những tiếng nổ lớn và các mảnh vỡ nổi lên cho thấy tàu RO-116 đã bị tiêu diệt.
Tàu ngầm I-16 của Nhật Bản.
Ngày 25/5, các tàu khu trục nhận lệnh tiến đến quần đảo Admiralty để tiếp nhiên liệu và bổ sung đạn dược. Trên đường, vào khoảng 11 giờ đêm ngày 26/5, họ lại phát hiện một tàu ngầm qua radar, và nó cũng vội vàng lặn xuống. Như sử gia hải quân Mỹ Samuel Morison đã viết, quyền ra đòn tấn công đầu tiên được trao cho Rabi vì "thật bất tiện khi tất cả các tàu ngầm đều bị England đánh chìm".
Tuy nhiên, Rabi mất liên lạc với tàu ngầm, và rồi England buộc phải tiêu diệt mục tiêu bằng máy phóng bom Hedgehog. Lần này, tàu ngầm Nhật Bản RO-108 từng đánh chìm tàu khu trục Mỹ Henley vào tháng 10/1943, đã bị tiêu diệt.
Về số phận những chiếc tàu ngầm của mình, bộ chỉ huy Nhật Bản biết được vào ngày 27/5 qua những thông tin bị chặn và giải mã của Hải quân Mỹ. Họ đã ra lệnh cho các tàu ngầm còn lại rời khỏi khu vực nguy hiểm. Không hiểu vì lý do gì mà tàu ngầm RO-105 không nhận được cảnh báo. Vào thời điểm đó, các tàu khu trục đã tiếp nhiên liệu và ngày 29/5, họ đã cùng tàu sân bay hộ tống Hogget Bay tiếp tục cuộc săn lùng.
Vào đêm 30/5, nhóm tàu chống ngầm này đã phát hiện tàu ngầm RO-105. Hóa ra, đây là một đối thủ khó nhằn. RO-105 đã sử dụng tất cả các mánh khóe có thể để thoát khỏi sự truy đuổi. Cuộc chiến kéo dài suốt 24 giờ, nhưng rạng sáng ngày 31/5, England cuối cùng đã kết liễu RO-105 bằng một loạt đạn từ Hedgehog.
Với chiến công lớn tiêu diệt 6 tàu ngầm trong vòng 12 ngày, Đô đốc Ernest Joseph King đã trao Huy chương Thập tự Hải quân cho Trung úy Pendleton và tuyên bố rằng "sẽ luôn luôn có một tàu chiến mang tên England trong lực lượng Hải quân Mỹ".
Tàu chống ngầm England của Mỹ đã vượt qua kỷ lục của sĩ quan hải quân Anh John Walker vào tháng 2/1944, khi nhóm của ông đã đánh chìm 5 tàu ngầm Đức trong một chuyến đi. Tuy nhiên, thành công của England không thể coi là hoàn toàn mang tính chất cá nhân, vì nó hoạt động trong nhóm, mặc dù nó là chiếc may mắn hơn những chiếc khác.
Kim Thanh Hằng
Nguồn ANTG : https://antg.cand.com.vn/ho-so-mat/ky-luc-tieu-diet-tau-ngam-nhat-cua-hai-quan-my-i772247/