Ảnh minh họa
Một quốc gia mà không có Quốc chính, không có Quốc tín, không có Quốc khí… thì khó có thể có Quốc thể một cách ngang tầm và xứng đáng. Đó chính là văn hóa.
Năm 1010, bằng một quyết định văn hóa sáng suốt vượt trước thời đại, Vua Lý Thái Tổ mở ra một chương mới trong lịch sử Đại Việt. Bằng sự kiện này, nhà Lý đặt nền móng cho một thời đại mới, thay thế chính sách cai trị thông qua quân sự bằng quản trị đất nước thông qua thể chế, luật pháp và từ văn hóa.
Đây là sự khởi đầu cho nhận thức mới về sự tất yếu của văn hóa đối với sự nghiệp dựng nước và giữ nước mà cốt lõi của nó là tư tưởng "Dân vi quý". Từ đó về sau, thời đại nào văn hóa dựng nước và giữ nước đều được các thế hệ tổng kết thành bài học quan trọng hàng đầu để đất nước có thể tồn tại, phát triển và "hùng cứ một phương".
Bước vào thế kỷ XXI, suy cho cùng, mọi sự chuẩn bị dù toàn diện, đều không thể ngoài văn hóa, từ tâm thế sẵn sàng cho tới những kỹ năng riêng biệt cụ thể đều không nằm ngoài nhân cách văn hóa của mỗi cá nhân và của một dân tộc.
Yếu tố mở đường cho điều đó là một nhân tố của văn hóa nhưng nó mang yếu tố khai mở, chuẩn bị cho mọi sự chuẩn bị khác về kinh tế hay chính trị... Đó là tinh thần khai phóng, tự do, dân chủ của một nền văn hóa mở, sẵn sàng đón nhận mọi xu hướng tiên tiến của nhân loại và đề phòng mọi biến thái phản văn hóa - phản phát triển.
"Văn hóa soi đường cho quốc dân đi".
Sau 20 năm, càng tiến vào thế kỷ XXI, khi lịch sử phát triển của thế giới là lịch sử ngắn hạn, kinh nghiệm thành công của các nước phát triển càng chỉ rõ và khẳng định, bất cứ một quốc gia, dân tộc nào muốn phát triển bền vững, không thể đi bằng một đôi chân khập khiễng, mà suy cho cùng, chỉ bằng văn hóa hoặc bằng kinh tế, dù xét theo nghĩa rộng nhất hay hẹp nhất của những vấn đề này.
Không thể nói tới sự phát triển cân bằng, bền vững chỉ khi đạt được sự thành công về văn hóa (dù một cách độc lập hay giữ vị thế đi tiên phong xã hội) hoặc chỉ khi kinh tế tăng trưởng ngoạn mục (dù mang tính quyết định hay cơ bản và quan trọng tới đâu); và ngược lại.
Do đó, văn hóa phải luôn luôn là một ưu tiên xứng đáng, ngay cả trong hoàn cảnh cấp bách. Kinh nghiệm của các nước phát triển xác chứng, ngay cả trong những lúc khốn cùng, người ta càng cần phải có thái độ trân trọng đối với văn hóa.
Bản chất của đổi mới là sáng tạo, tức văn hóa. Do đó, trân trọng, cổ vũ và bảo vệ người dũng cảm đột phá đổi mới sáng tạo là trọng sự căn bản của những người lãnh đạo, quản lý là "hàn thử biểu" của sự phát triển văn hóa. Xưa nay, đây là nhân tố tiên phong phát triển của bất cứ phương diện nào, ở bất cứ thể chế nào.
Những khuyến nghị cải cách của Chu Văn An với "Thất trảm sớ" cách nay hơn 700 năm, Nguyễn Trường Tộ với "Tế cấp bát điều", Nguyễn Lộ Trạch với "Thời vụ sách"… dù cách nay gần 200 năm vẫn đang là những bài học lớn trên phương diện này đối với chúng ta. Xét cho cùng, đó chính là văn hóa của sự canh tân và phát triển đất nước.
Nếu không dũng cảm về văn hóa trong Kỷ nguyên mới, chúng ta sẽ giẫm phải vết xe đổ cũ trong điều kiện mới. Do đó, muốn đi nhanh, mạnh, có thể bằng công nghệ. Nhưng, để đi xa, bền vững và nhân văn, không thể không bằng văn hóa.
Chưa bao giờ như hiện nay, văn hóa đó là tầm nhìn, là tư duy, là quyết sách chính trị, là giá trị tinh thần của xã hội, là trụ cột phát triển quốc gia chứ không phải là văn hóa đơn thuần, giản đơn và cô lập.
Tất cả những quyết sách về kinh tế hay chính trị, nếu không xem chúng dưới góc độ văn hóa, nói sâu hơn, không khởi nguồn từ hạt nhân văn hóa thì rốt cuộc chỉ là giải quyết những vấn đề kinh tế đơn thuần, những vấn đề chính trị thiển cận và hời hợt, và chắc chắn sẽ thất bại.
Cho nên, vấn đề văn hóa phải là vấn đề được đặt lên trước hết, xuyên thấm trong toàn bộ việc xây dựng những quyết sách chính trị hay kinh tế. Đó là tư duy, đó là tầm nhìn, đó là những giá trị đạo đức mà sự phát triển của kinh tế-xã hội chính là sự kết tinh và thể hiện ở mức độ này hay tính chất kia.
Văn hóa vốn bản thân nó đã rộng hơn khái niệm chính trị và trong thực tế, nhiều nhà văn hóa đã đặt khía cạnh chính trị đứng sau những công việc mình làm, hay nói chính xác hơn, điều khiến họ quan tâm số 1 là vấn đề văn hóa chứ không phải vấn đề chính trị. Khởi động công cuộc đổi mới (năm 1986), chúng ta bắt đầu từ đổi mới tư duy.
Đây chính là văn hóa. Và, quá trình hoạch định các chính sách (vĩ mô và vi mô) phát triển văn hóa và tăng trưởng kinh tế luôn được tính toán tổng thể không chỉ căn cứ vào mục tiêu với mức độ thành công mà đồng thời luôn tính đến phương thức thực thi và các hệ quả của chúng một cách nhân văn - bản chất của chế độ ta, tức là văn hóa.
Đó cũng chính là mục tiêu văn hóa.
Đặc biệt, việc tăng trưởng và phát triển kinh tế, nhất là tăng trưởng kinh tế, luôn được xem là một quá trình có tính chính trị và văn hóa trước khi là một quá trình kinh tế và công nghệ hay văn hóa đơn thuần, cục bộ, để tránh quy luật "kinh tế vì kinh tế", "tiền vì tiền", "vì kinh tế, bất chấp đạo lý", "vì lợi nhuận, chà đạp tất cả";
hay văn hóa chỉ là "cái đuôi của kinh tế", "ăn theo kinh tế", hay là thứ "văn hóa vay mượn", "văn hóa nhập khẩu", "văn hóa lai căng"...
Đó lại là vấn đề phát triển văn hóa.
Ảnh minh họa
Phát triển văn hóa, xã hội và con người hài hòa với phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển là thể hiện rõ nhất tính chủ động trong dự báo và giải quyết hài hòa các mối quan hệ lớn: giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, giữa phát triển nhanh với nỗ lực bảo đảm công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, phụng sự hạnh phúc của Nhân dân, giữa gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa…
Đây chính là đột phá so sánh tuyệt đối giữa chúng ta, trên phương diện này, với bất kỳ quốc gia nào khác, và với chính chúng ta ở bất kỳ thời kỳ nào khác.
Nhằm chế ngự và xử lý hiệu quả những mặt trái của nền kinh tế thị trường, văn hóa phải thấm sâu vào các hoạt động kinh tế, làm cho sự phát triển văn hóa đồng bộ và tương xứng với phát triển kinh tế, phát triển xã hội;
và đến lượt nó, sự tiến bộ chính trị... nhất định làm cho nền kinh tế đất nước đạt tốc độ tăng trưởng cao, các cơ hội phát triển không ngừng được mở rộng không chỉ cho mọi thành phần kinh tế mà cho mọi tầng lớp dân cư, đời sống của Nhân dân được cải thiện; sự phát triển của kinh tế hướng vào sự phục vụ phát triển con người, bảo đảm tiến bộ xã hội.
Đó chính là nền móng tư tưởng và hành động làm nên sự thống nhất trong Đảng và hệ thống chính trị, sự đồng thuận toàn dân đối với công cuộc đổi mới ngày càng cao; là động lực phát huy tính chủ động, sáng tạo, tính tích cực xã hội của Nhân dân ngày càng mạnh mẽ;
tôn vinh những giá trị và đặc sắc văn hóa của cộng đồng 54 dân tộc và ngày càng phát triển, góp phần làm phong phú và sâu sắc nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng; là động lực hội nhập quốc tế nhằm nâng cao vị thế, sức mạnh và uy tín đất nước trước thế giới.
Kinh nghiệm gần 40 năm đổi mới càng cho thấy, trong quá trình phát triển, phải bảo đảm sự cân bằng và hài hòa một cách toàn diện giữa các phương diện phát triển chính trị - kinh tế - văn hóa và xã hội.
Và, chưa bao giờ như bây giờ, chúng ta cần một triết lý phát triển Việt Nam. Tất cả công việc đổi mới, sáng tạo phải nhằm tới kiến tạo triết lý văn hóa của sự phát triển bền vững và nhân văn Việt Nam.
Trước yêu cầu phát triển mới, càng phải bắt đầu từ tư duy, tầm nhìn, quyết định chính trị và tổ chức hành động phát triển. Nghĩa là, bắt đầu từ văn hóa để đổi mới tư duy, tầm nhìn, lựa chọn phương thức và giải pháp giải quyết tổng thể;
lấy văn hóa, trước hết là văn hóa chính trị làm quyết sách đột phá tiên phong chiến lược, văn hóa kinh tế làm nền tảng căn bản, đồng thời lấy văn hóa dân tộc bản sắc, hiện đại làm nền móng xã hội và lòng tin của Nhân dân làm động lực căn bản, văn hóa ngoại giao làm động lực quan trọng thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và hạnh phúc.
Đó chính là lựa chọn tất yếu mang tầm chiến lược phù hợp với sự phát triển của nhân loại.
Bài sau: Càng phát triển văn hóa, Kỷ nguyên mới càng phát triển toàn diện
TS. Nhị Lê, nguyên Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản