Kỷ nguyên số, việc đưa AI thành môn học bắt buộc là bước đi chiến lược

Kỷ nguyên số, việc đưa AI thành môn học bắt buộc là bước đi chiến lược
2 ngày trướcBài gốc
.t1 { text-align: justify; }
Vừa qua, Đại học Quốc gia Hà Nội đã xây dựng học phần “Nhập môn công nghệ số và ứng dụng trí tuệ nhân tạo” để trang bị kiến thức nền tảng về tư duy số và những công cụ phổ biến về trí tuệ nhân tạo (AI) cho sinh viên. Học phần mới này sẽ được triển khai chính thức với sinh viên chính quy toàn Đại học Quốc gia Hà Nội từ khóa tuyển sinh từ năm 2025, đào tạo theo hình thức trực tuyến. [1]
Đây được đánh giá là bước đi mạnh mẽ nhằm chuẩn hóa năng lực số, đáp ứng yêu cầu hội nhập và dẫn dắt chuyển đổi số.
Trong khuôn khổ phiên họp Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số diễn ra sáng ngày 29/5, Tổng Bí thư Tô Lâm, trưởng Ban Chỉ đạo, chủ trì phiên họp đã đặt ra yêu cầu về những nhiệm vụ mà ngành giáo dục đào tạo cần thực hiện để chuẩn bị nguồn nhân lực cho kỷ nguyên mới.
Tổng Bí thư nhấn mạnh: "Giáo dục và đào tạo đến nay cần xem chương trình trí tuệ nhân tạo được đào tạo từ lớp nào, bắt đầu từ đâu và chương trình thế nào. Nếu không có việc này, không thể nói rằng đổi mới trong giáo dục và đào tạo. Chúng ta đang vội bình dân học vụ số, nhưng trí tuệ nhân tạo không còn bình dân nữa, phải đưa chương trình đào tạo thì chúng ta mới có đội ngũ. Bây giờ đến lớp 9, lớp 10 cũng phải có trí tuệ nhân tạo như thế nào, đào tạo toàn bộ thế nào, đại học thế nào và chuyên gia học những gì. Ai cũng phải sử dụng trí tuệ nhân tạo, trong mọi ngành, mọi lĩnh vực, không thể chỉ chung chung được nữa".
Đưa AI vào làm môn học bắt buộc là xu hướng tất yếu trong giáo dục và đào tạo
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Văn Hồng - Viện trưởng Viện Sư phạm Kỹ thuật, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh cho hay, trí tuệ nhân tạo (AI) đang tác động sâu, rộng đến mọi mặt của xã hội, trong đó có giáo dục và đào tạo. Với tính năng vượt trội, công nghệ AI hỗ trợ tích cực hoạt động học tập, giảng dạy và nghiên cứu khoa học, chẳng hạn như tìm kiếm thông tin, phân tích dữ liệu, đưa ra dự đoán,...
Đối với người học, AI giúp gia tăng tính linh hoạt và cá nhân hóa việc học, phù hợp hơn với phong cách và điều kiện cá nhân, qua đó giúp người học đạt kết quả học tập tốt hơn. Đối với giảng viên, AI cung cấp các công cụ hỗ trợ thiết kế dạy học, trợ lý ảo thông minh, đánh giá, phân tích, phản hồi kết quả dạy học, qua đó giúp giảng viên phát triển kỹ năng giảng dạy, tiết kiệm thời gian và tăng hiệu quả dạy học. Bên cạnh đó, AI cũng cung cấp các công cụ hỗ trợ tìm kiếm thông tin, phân tích dữ liệu, đưa ra gợi ý, dự đoán, tạo thuận lợi cho giảng viên trong nghiên cứu khoa học. Song, việc ứng dụng AI trong giáo dục và đào tạo hiện nay ở Việt Nam vẫn đang gặp những thách thức lớn, ảnh hưởng đến hiệu quả công nghệ như: những vấn đề về quyền riêng tư, tính bảo mật; sự phụ thuộc AI quá mức trong sử dụng; nguy cơ vi phạm đạo đức học thuật gia tăng; sự công bằng và minh bạch trong đánh giá kết quả giáo dục.
Với những tiện ích vượt trội và thách thức lớn mà công nghệ AI mang lại trong giáo dục và đào tạo hiện nay, các cơ sở giáo dục nói chung, đặc biệt là giáo dục đại học có vai trò rất quan trọng trong việc dẫn dắt, định hướng, hỗ trợ, lan tỏa, kiểm soát việc sử dụng công nghệ AI trong nhà trường và cộng đồng xã hội.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Văn Hồng - Viện trưởng Viện Sư phạm Kỹ thuật, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh NVCC
Theo thầy Hồng, việc đưa nội dung ứng dụng công nghệ AI làm môn học bắt buộc trong chương trình đại học không chỉ là điều cần thiết, mà còn là xu hướng tất yếu trong giáo dục và đào tạo, giúp sinh viên, giảng viên và trường học khai thác hiệu quả công nghệ AI. Đồng thời, khắc phục tối đa những hạn chế trong học tập, giảng dạy và thúc đẩy sự phát triển của ứng dụng công nghệ cũng như chuyển đổi số trong giáo dục.
Việc tích hợp chuẩn đầu ra và thiết kế môn học (học phần) về công nghệ AI phù hợp với chương trình đào tạo, giúp sinh viên được học tập chính quy, bài bản về công nghệ AI, qua đó phát triển năng lực AI và ứng dụng công nghệ AI hiệu quả.
Cùng với đó, việc đưa môn học AI vào chương trình đào tạo cũng sẽ sẽ tạo động lực và khuyến khích giảng viên tìm hiểu về AI để phục vụ giảng dạy, nghiên cứu và hỗ trợ sinh viên, nhằm đáp ứng yêu cầu dạy học. Ngoài ra, trường đại học sẽ thuận lợi hơn trong việc chia sẻ, lan tỏa về công nghệ AI và ứng dụng công nghệ AI hiệu quả cho giáo dục và cộng đồng xã hội.
Tuy nhiên, để xây dựng chương trình học về AI hiệu quả và có thể trở thành môn học bắt buộc, các trường đại học cần lưu ý về đề cương môn học phải được thiết kế đáp ứng với mục tiêu và chuẩn đầu ra về năng lực AI được tích hợp vào chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo, đồng thời đảm bảo thời lượng và phù hợp với đặc điểm của chương trình đào tạo đó.
Bên cạnh đó, hoạt động dạy học và kiểm tra đánh giá cần thiết kế và thực hiện phù hợp đặc điểm nội dung ứng dụng công nghệ AI và điều kiện nhà trường.
Đặc biệt, chuẩn bị đội ngũ giảng viên, nền tảng công nghệ, mạng internet và các điều kiện hỗ trợ khác, trong đó lưu ý đến tính cập nhật và yếu tố bản quyền của các sản phẩm, công cụ ứng dụng AI được lựa chọn sử dụng cho môn học cần được chú trọng.
Đồng ý kiến với quan điểm trên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Quản Thành Thơ - Trưởng khoa Khoa học và Kỹ thuật máy tính, Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, trong thời đại chuyển đổi số và cách mạng công nghiệp 4.0, AI đang trở thành một công cụ quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Trong đó, các trường đại học đóng vai trò then chốt trong việc phát triển hệ sinh thái AI tại Việt Nam.
“Các trường đại học là nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, cung cấp kiến thức nền tảng và kỹ năng cần thiết cho sinh viên để có thể tham gia vào lĩnh vực AI. Ngoài ra, đây còn là trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghệ, nơi diễn ra các hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, góp phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Hơn nữa, thông qua việc tổ chức các hội thảo, sự kiện và chương trình hợp tác, tạo ra môi trường thuận lợi cho sự trao đổi kiến thức và hợp tác giữa các bên liên quan, các trường đại học có thể đóng vai trò là cầu nối giữa các bên trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, như doanh nghiệp, chính phủ và cộng đồng”, thầy Thơ nêu quan điểm.
Theo thầy Thơ, việc đưa AI trở thành môn học bắt buộc trong chương trình đại học là một bước đi chiến lược, mang lại nhiều ý nghĩa và tác động tích cực đối với sự phát triển của ngành giáo dục, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số và cách mạng công nghiệp 4.0. Việc này nhằm chuẩn bị cho sinh viên những kỹ năng cần thiết trong kỷ nguyên số.
Tuy nhiên, các ngành học khác nhau sẽ có nhu cầu và đặc trung sử dụng AI khác nhau, do vậy, cần phải có sự am hiểu phù hợp về đặc thù ngành lẫn kiến thức về AI để có thể xây dựng môn học phù hợp đối với các ngành học cụ thể. Cùng với đó, để thực hiện điều này một cách hiệu quả, các trường đại học cần có chiến lược rõ ràng, đầu tư vào cơ sở hạ tầng, phát triển đội ngũ giảng viên và xây dựng chương trình giảng dạy linh hoạt, cập nhật. Đồng thời, cần nhận thức và giải quyết các thách thức liên quan để đảm bảo chất lượng và hiệu quả của việc giảng dạy AI trong giáo dục đại học.
Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh đang phát triển các chương trình đào tạo chuyên sâu về AI. Ảnh minh họa: Website trường
Trường học cần lưu ý xây dựng chương trình học về AI phù hợp
Theo quan điểm của thầy Quản Thành Thơ, để việc đưa AI trở thành môn học bắt buộc một cách hiệu quả, các trường đại học cần cân nhắc kỹ lưỡng về thiết kế chương trình, đội ngũ và cơ sở vật chất để giảng dạy.
Thứ nhất, chương trình AI cần được thiết kế để phù hợp với đặc thù của từng lĩnh vực đào tạo. Ví dụ, đối với ngành Khoa học Xã hội và Nhân văn, nội dung có thể tập trung vào ứng dụng AI trong phân tích dữ liệu xã hội, xử lý ngôn ngữ tự nhiên. Trong khi đó, các ngành Kỹ thuật có thể đi sâu vào học máy, thị giác máy tính và robot thông minh. Điều này đảm bảo rằng sinh viên không chỉ học lý thuyết mà còn hiểu cách áp dụng AI trong lĩnh vực chuyên môn của mình.
Thứ hai, AI là lĩnh vực phát triển nhanh chóng, do đó, chương trình giảng dạy cần được cập nhật thường xuyên để phản ánh những tiến bộ mới nhất. Việc này đòi hỏi sự linh hoạt trong thiết kế chương trình và sự hợp tác chặt chẽ với các chuyên gia trong ngành để đảm bảo tính thời sự và thực tiễn của nội dung giảng dạy.
Thứ ba, sinh viên cần được trang bị không chỉ kiến thức lý thuyết mà còn kỹ năng thực hành thông qua các dự án, bài tập và phòng thí nghiệm.
Thứ tư, để giảng dạy AI hiệu quả, các trường cần đầu tư vào việc đào tạo giảng viên, bao gồm cả việc cập nhật kiến thức chuyên môn và kỹ năng sư phạm. Hợp tác với các chuyên gia trong ngành và tổ chức các khóa đào tạo chuyên sâu là những bước quan trọng để nâng cao năng lực giảng dạy.
Thứ năm, việc giảng dạy AI đòi hỏi cơ sở hạ tầng công nghệ hiện đại, bao gồm máy tính hiệu năng cao, phần mềm chuyên dụng và môi trường học tập trực tuyến. Đặc biệt một số mô hình AI dựa trên ngôn ngữ lớn cần có môi trường thực hành phù hợp.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Quản Thành Thơ - Trưởng khoa Khoa học và Kỹ thuật máy tính, Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh NVCC
Cũng theo thầy Thơ, Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh đang phát triển các chương trình đào tạo chuyên sâu về AI, bao gồm cả bậc đại học và sau đại học, nhằm trang bị cho sinh viên kiến thức và kỹ năng cần thiết để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động trong kỷ nguyên số.
Cụ thể, nhà trường đây mạnh hợp tác với doanh nghiệp và tổ chức quốc tế, nhằm tiếp cận với các công nghệ mới nhất, đồng thời tạo cơ hội thực tập và việc làm cho sinh viên. Đồng thời, trường khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu trong lĩnh vực AI, bao gồm việc thành lập các nhóm nghiên cứu chuyên sâu, tổ chức hội thảo khoa học và xuất bản các công trình nghiên cứu. Điều này không chỉ nâng cao năng lực nghiên cứu của nhà trường mà còn đóng góp vào sự phát triển chung của lĩnh vực AI trong nước.
Cùng với đó, việc đầu tư vào hạ tầng công nghệ, bao gồm việc xây dựng các phòng thí nghiệm hiện đại và triển khai các nền tảng học tập trực tuyến, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc giảng dạy và nghiên cứu AI được nhà trường chú trọng. Ngoài ra, nhà trường cũng tổ chức các khóa đào tạo và bồi dưỡng cho giảng viên nhằm cập nhật kiến thức và kỹ năng mới trong lĩnh vực AI, đồng thời khuyến khích giảng viên tham gia các chương trình đào tạo quốc tế để nâng cao trình độ chuyên môn.
Thầy Thơ nhấn mạnh, việc các trường đại học đồng loạt chú trọng đào tạo về AI, đặc biệt là đưa AI trở thành môn học bắt buộc là một bước đi chiến lược nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao cho kỷ nguyên số. Điều này được kỳ vọng sẽ mang lại những thay đổi tích cực và sâu rộng cho thị trường lao động Việt Nam. Đồng thời, tạo ra một lực lượng lao động có trình độ cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong kỷ nguyên số, góp phần vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế và xã hội.
Còn theo thầy Bùi Văn Hồng, để xây dựng chương trình học về AI hiệu quả và có thể trở thành môn học bắt buộc, các trường đại học cần lưu ý, đề cương môn học phải được thiết kế đáp ứng với mục tiêu và chuẩn đầu ra về năng lực AI được tích hợp vào chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo, đồng thời đảm bảo thời lượng và phù hợp với đặc điểm của chương trình đào tạo.
Cùng với đó, hoạt động dạy học và kiểm tra đánh giá cần thiết kế và thực hiện phù hợp đặc điểm nội dung ứng dụng công nghệ AI và điều kiện nhà trường. Hơn nữa, trường đại học phải chuẩn bị tốt về đội ngũ giảng viên, nền tảng công nghệ, mạng internet và các điều kiện hỗ trợ khác, trong đó lưu ý đến tính cập nhật và yếu tố bản quyền của các sản phẩm, công cụ ứng dụng AI được lựa chọn sử dụng cho môn học.
Viện trưởng Viện Sư phạm Kỹ thuật, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh nhấn mạnh, việc các trường đại học chú trọng đào tạo về AI, đặc biệt là đưa AI thành môn học bắt buộc sẽ giúp sinh viên, giảng viên và cộng đồng xã hội hiểu đúng về công nghệ AI và công cụ ứng dụng AI để sử dụng hiệu quả và có trách nhiệm, từng bước làm chủ được công nghệ, đồng thời nâng cao chất lượng đào tạo. Đặt biệt, những kiến thức và kỹ năng về công nghệ AI được trang bị chính quy, bài bản trong các nhà trường sẽ giúp sinh viên khai thác hiệu quả hơn công nghệ AI trong công việc khi ra trường, đồng thời giúp giảng viên thuận lợi hơn trong phát triển nghiên cứu khoa học theo tinh thần Nghị số quyết 57- NQ/TW của Bộ Chính trị.
Mặt khác, AI giúp chất lượng nguồn nhân lực qua đào tạo được nâng lên, gia tăng hiệu xuất làm việc, tăng sự cạnh tranh trong việc làm và sử dụng lao động. Trong bối cảnh công nghệ phát triển như hiện nay, kết hợp ứng dụng công nghệ AI sẽ xuất hiện nhiều sản phẩm ứng dụng AI thay thế dần vai trò con người trong công việc, làm thay đổi nhu cầu sử dụng lao động cả về số lượng và chất lượng theo từng lĩnh vực ngành nghề khác nhau. Điều này cũng cho thấy vai trò quan trọng và xu thế tất yếu của việc tích hợp năng lực AI vào chương trình đào tạo, giúp sinh viên được kiến thức, kỹ năng về AI để thích nghi tốt với sự thay đổi về nhu cầu lao động khi tốt nghiệp trong thời đại số và công nghệ AI phát triển như hiện nay.
Tài liệu tham khảo:
[1] https://www.vnu.edu.vn/ttsk/?C2090/N36835/dHQGHN-dua-hoc-phan-cong-nghe-so-va-tri-tue-nhan-tao-vao-giang-day-tu-nam-nhat.htm
Mạnh Dũng
Nguồn Giáo Dục VN : https://giaoduc.net.vn/ky-nguyen-so-viec-dua-ai-thanh-mon-hoc-bat-buoc-la-buoc-di-chien-luoc-post251515.gd