Đồng chí Nguyễn Văn Linh (áo trắng, ngoài cùng bên phải) gặp gỡ các đại biểu dự Hội nghị Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tháng 2/1979.
Nhân dân - chủ thể và động lực quyết định của công cuộc đổi mới
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh quan niệm rằng, đường lối đổi mới không phải là sản phẩm chủ quan, duy ý chí của một vài nhà lãnh đạo, mà phải được hình thành từ chính thực tiễn sinh động của đời sống xã hội, từ những sáng kiến, những “xé rào” của nhân dân. Ông luôn khuyến khích các địa phương, các ngành mạnh dạn tìm tòi, thử nghiệm những cách làm mới, miễn là “dân có lợi, nước có lợi”. Ông nhận thấy rằng chính những mô hình khoán sản phẩm trong nông nghiệp, những nỗ lực “bung ra” trong sản xuất công nghiệp ở cơ sở... là những mầm mống của đổi mới, là thực tiễn để Đảng tổng kết và nâng lên thành lý luận, thành đường lối.
Phát biểu với cử tri Hà Nội, ông hoan nghênh tinh thần “năng động, đổi mới” của Hà Nội nhưng cũng chỉ ra thực tế “có người còn chưa tin, còn lo lắng, còn dò giữ lắm”. Điều này cho thấy ông ý thức rõ về sức ỳ của tư duy cũ và sự cần thiết phải có một luồng gió mới từ thực tiễn của nhân dân để phá vỡ sự trì trệ đó. Ông không áp đặt đổi mới một cách cứng nhắc mà kiên trì theo hướng “mở đường” cho nhân dân sáng tạo.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh hiểu rằng, muốn nhân dân thực sự trở thành động lực, họ phải được thực thi quyền làm chủ của mình. Quyền làm chủ đó không thể chỉ nằm trên giấy tờ, trong các nghị quyết, mà phải được thể hiện bằng một cơ chế dân chủ thực sự. Đây chính là tinh thần cốt lõi đằng sau loạt bài viết “Những việc cần làm ngay” dưới bút danh N.V.L. gây chấn động dư luận lúc bấy giờ.
“Những việc cần làm ngay” không chỉ là những bài báo chống tiêu cực đơn thuần. Đó là một chiến dịch chính trị sâu rộng nhằm công khai hóa, minh bạch hóa hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước, tạo ra một diễn đàn để nhân dân lên tiếng, giám sát và phê bình cán bộ, đảng viên. Bằng việc đưa những vụ việc tiêu cực, những “vùng cấm” ra ánh sáng, ông đã khuyến khích người dân tham gia vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Ông đã biến báo chí thành vũ khí sắc bén của nhân dân, tạo ra một áp lực xã hội mạnh mẽ. Dân chủ hóa, theo quan niệm của ông, chính là “cởi trói” cho tư duy, giải phóng năng lượng sáng tạo và tăng cường sự gắn bó máu thịt giữa Đảng và dân.
“Biết lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân” là phương pháp lãnh đạo cách mạng. Đây có thể coi là khẩu hiệu hành động, là phương châm làm việc của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh.
Mặt trận – cầu nối vững chắc giữa Đảng, Nhà nước và các tầng lớp nhân dân
Nếu nhân dân là chủ thể và động lực của đổi mới, thì Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chính là thiết chế để tập hợp, đoàn kết và phát huy sức mạnh đó. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nhận thức sâu sắc rằng, đổi mới là một sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp, đụng chạm đến lợi ích của nhiều tầng lớp, giai cấp. Để tạo được sự đồng thuận xã hội, để quy tụ mọi nguồn lực cho mục tiêu chung, không có tổ chức nào có vai trò quan trọng hơn Mặt trận.
Trước hết, Mặt trận là cầu nối vững chắc giữa Đảng, Nhà nước và các tầng lớp nhân dân. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh luôn nhấn mạnh vai trò “cầu nối” của Mặt trận. Cây cầu này có hai chiều. Một chiều, Mặt trận có trách nhiệm tuyên truyền, vận động, giải thích để đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước thấm sâu vào quần chúng, biến thành hành động tự giác của mỗi người dân. Chiều ngược lại, và đây là chiều mà ông đặc biệt coi trọng, Mặt trận phải là nơi tập hợp, phản ánh trung thực mọi tâm tư, nguyện vọng, ý kiến và cả những bức xúc của các tầng lớp nhân dân.
Trong bối cảnh đổi mới, khi nhiều vấn đề mới và phức tạp nảy sinh, kênh thông tin này trở nên vô giá. Giúp Đảng và Nhà nước tránh được những quyết sách chủ quan, xa rời thực tế; giúp điều chỉnh chính sách kịp thời, phù hợp với “ý Đảng, lòng dân”. Bằng việc tăng cường vai trò của Mặt trận, ông muốn xây dựng một cơ chế để việc “lắng nghe dân” được thể chế hóa, trở thành một hoạt động thường xuyên, nền nếp chứ không chỉ phụ thuộc vào sự nhiệt tâm của một vài cá nhân lãnh đạo.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh coi Mặt trận và các tổ chức thành viên là môi trường lý tưởng để người dân thực hành quyền làm chủ. Trong bài phát biểu tại buổi mít tinh trọng thể ngày 17/11/1990 kỷ niệm lần thứ 60 ngày thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam (18/11/1930 - 18/11/1990), Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh chỉ rõ: “Phối hợp và thống nhất hành động phải tiến hành ở mọi cấp, từ trung ương đến cơ sở và không chỉ trong việc tổ chức phát động phong trào quần chúng mà cả trong việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội, xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật, thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan nhà nước”. Thông qua các cuộc vận động, các phong trào thi đua, các hoạt động hiệp thương, kiểm tra và giám sát xã hội do Mặt trận chủ trì, người dân không chỉ đóng góp công sức, trí tuệ mà còn trực tiếp tham gia vào việc quản lý xã hội, quản lý nhà nước.
Ông đặc biệt đề cao việc thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan nhà nước thông qua Mặt trận. Đây chính là cơ chế để nhân dân, thông qua tổ chức của mình, kiểm soát quyền lực nhà nước, góp phần đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí – những căn bệnh mà ông quyết tâm đẩy lùi. Mặt trận Tổ quốc, với hệ thống tổ chức sâu rộng đến tận khu dân cư, chính là tai mắt của nhân dân, là thể chế hữu hiệu nhất để thực hiện sự giám sát đó, góp phần xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự “của dân, do dân, vì dân”. Quan điểm về kiểm tra, giám sát đã đặt nền tảng cho sự phát triển thành chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sau này.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh luôn thấm nhuần bài học của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đại đoàn kết: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Trong thời kỳ đổi mới, bài học đó càng trở nên sâu sắc.
CHU VĂN KHÁNH