Kỷ niệm 260 năm Ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du (1765-2025): Bài 1 - Danh nhân văn hóa thế giới

Kỷ niệm 260 năm Ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du (1765-2025): Bài 1 - Danh nhân văn hóa thế giới
11 giờ trướcBài gốc
Di tích Quốc gia đặc biệt Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du tại Tiên Điền, Hà Tĩnh (ảnh: Báo Hà Tĩnh)
Nguyễn Du - cái tên gắn liền với thăng trầm thời đại
Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh năm Ất Dậu 1765 tại phường Bích Câu, Thăng Long (Hà Nội), dưới thời Cảnh Hưng triều vua Lê Hiển Tông. Ông vốn thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt, thư hương thế gia, với cha là Đại tư đồ (tể tướng) Nguyễn Nghiễm sinh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh (nay là xã Tiên Điền, tỉnh Hà Tĩnh). Những tưởng với xuất thân cao quý ấy, Nguyễn Du cũng sẽ một đời vinh hiển. Thế nhưng ngược lại, cuộc đời ông là một chuỗi ngày gắn với bi kịch gia đình, đặc biệt là cuộc tranh đấu, dằn vặt của ý thức hệ và vô số những thăng trầm thời đại.
Sự việc bắt đầu từ năm Tân Mão 1771, Đại tư đồ Nguyễn Nghiễm thôi giữ chức Tể tướng, về trí sĩ ở quê nhà, Nguyễn Du cũng theo cha về quê. Năm Bính Thân 1776 Nguyễn Nghiễm mất. Đến năm 1778, mẹ là bà Trần Thị Tần cũng lâm bệnh rồi qua đời. Cậu bé Nguyễn Du khi ấy mới tròn 13 tuổi trở thành trẻ mồ côi và phải sống cảnh ăn nhờ ở đậu, khi thì ở nhà anh ruột Nguyễn Khản, khi thì nhà anh vợ Đoàn Nguyễn Tuấn, có lúc lại làm con nuôi một võ quan họ Hà. Năm 1783, Nguyễn Du thi đậu Tam trường và được tập ấm một chức quan võ của người cha nuôi ở Thái Nguyên. Sau đó, Nguyễn Du lấy vợ là bà Đoàn Thị Huệ, người làng An Hải, huyện Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam, con gái của tiến sĩ Đoàn Nguyễn Thục.
Sóng gió lại ập đến khi chính quyền Lê - Trịnh sụp đổ, Tây Sơn quét sạch giặc Thanh. Họ Nguyễn Tiên Điền cũng sa sút, tiêu điều “Hồng Linh vô gia, huynh đệ tán”. Nguyễn Du tiếp tục trải qua 10 năm gió bụi. Đến năm Nhâm Tuất 1802, Gia Long lên ngôi, Nguyễn Du được vời ra làm quan cho triều đình nhà Nguyễn. Ông được bổ làm Tri huyện Phù Dung (phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam), rồi Tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam. Tuy rằng quan lộ hanh thông nhưng Nguyễn Du vẫn không mặn mà với chốn quan trường, nên mùa Thu năm Giáp Tý 1804, lấy cớ bị bệnh ông từ quan về quê.
Từ quan chưa được bao lâu thì vua Gia Long có chỉ gọi ông vào kinh. Mùa Xuân năm Ất Sửu 1805, ông được thăng Đông Các đại học sĩ, tước Du Đức hầu. Tháng 9 năm Đinh Mão 1807, được bổ chức giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương. Xong việc, ông lại xin nghỉ về quê và được vua chấp thuận. Nhưng đến mùa Hạ năm Kỷ Tỵ 1809, vua lại có chỉ bổ ông giữ chức Cai Bạ tỉnh Quảng Bình. Tháng 2 năm Quý Dậu 1813, ông được thăng hàm Cần Chánh đại học sĩ, rồi cử đi sứ Trung Quốc với tư cách là Tuế Cống Chánh sứ. Mùa Hạ năm Ất Hợi 1815, Nguyễn Du được phong chức Hữu Tam Tri Bộ Lễ, tước Du Đức hầu. Tháng 8 năm Canh Thìn 1820, vua Gia Long mất, Minh Mạng lên ngôi, Nguyễn Du được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc. Thế nhưng chưa kịp đi thì ông mắc bạo bệnh và mất tại Kinh thành Huế ngày 10/8, niên hiệu Minh Mệnh năm thứ nhất (1820), hưởng thọ 55 tuổi.
Văn chương - tinh hoa phát tiết
Dù quan lộ hanh thông, nhưng phải khẳng định rằng văn chương mới là địa hạt thể hiện cao nhất, đầy đủ nhất tài năng, trí tuệ của Nguyễn Du. Di sản văn chương đã đưa ông lên hàng Đại thi hào dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới.
Trong kho tàng di sản văn chương của ông, nổi bật là 3 tập thơ chữ Hán “Thanh hiên thi tập”, “Nam trung tạp ngâm”, “Bắc hành tạp lục”. Đáng nói, do nhiều yếu tố tác động mà đến nay hậu thế mới sưu tầm được được 249 bài/3 tập. Nhưng bấy nhiêu cũng đủ để hậu thế có được cái nhìn tương đối trọn vẹn về tài năng của Nguyễn Du nhờ bởi các tác phẩm có lời thơ điêu luyện, góc nhìn sắc sảo. Nhiều tác phẩm phản ánh hiện thực bất công trong xã hội, biểu lộ tình thương xót đối với các nạn nhân, phê phán các nhân vật chính diện và phản diện trong lịch sử Trung Quốc.
Đặc biệt, một số tác phẩm như “Phản chiêu hồn”, “Thái Bình mại ca giả”, “Long thành cầm giả ca” đã thể hiện rõ tấm lòng của ông trước vận mệnh con người. Những bài viết về Thăng Long, về quê hương hay cảnh vật ở những nơi ông từng đi qua đều toát lên nỗi ngậm ngùi dâu bể. Nguyễn Du cũng có gắn bó với cuộc sống nông thôn, khi với phường săn thì tự xưng là Hồng Sơn liệp hộ, khi với phường chài thì tự xưng là Nam Hải điếu đồ. Ông có những bài ca dân dã như “Thác lời con trai phường nón”, bài văn tế như “Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu”, chứng tỏ ông cũng đã tham gia sinh hoạt văn nghệ dân gian với các phường vải, phường thủ công ở Nghệ Tĩnh.
Nhưng có lẽ, những tác phẩm tiêu biểu cho thiên tài Nguyễn Du chính là 2 tác phẩm viết bằng quốc âm: “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều) và “Văn tế thập loại chúng sinh”. Cả 2 tác phẩm xuất sắc này đều thấm đẫm tinh thần nhân đạo chủ nghĩa, phản ánh sinh động xã hội bất công và cuộc đời dâu bể.
Trong đó, “Truyện Kiều” đã thoát khỏi địa hạt văn chương để sống bền bĩ trong đời sống và đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hóa Việt Nam. Với những giá trị lớn lao của tác phẩm mà suốt hàng trăm năm, Truyện Kiều được lưu truyền rộng rãi, chinh phục mọi tầng lớp, trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho thơ ca, âm nhạc, sân khấu. Đồng thời, sản sinh nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa - nghệ thuật độc đáo như trò Kiều, chèo Kiều, vịnh Kiều, lẩy Kiều, bói Kiều, đố Kiều... và là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn trong và ngoài nước. Đến nay, Truyện Kiều đã được dịch ra trên 30 thứ tiếng trên thế giới, trong đó tiếng Pháp có trên 15 bản dịch, tiếng Anh và tiếng Hán có trên 10 bản, tiếng Nhật 5 bản... Năm 2020 xuất bản ấn phẩm “Truyện Kiều tam ngữ” (Truyện Kiều bằng 3 thứ tiếng: Việt - Anh - Pháp).
Với những cống hiến đặc biệt của Đại thi hào Nguyễn Du đối với nền văn học dân tộc và văn hóa nhân loại, Đảng, Nhà nước và cộng đồng quốc tế đã nhiều lần tôn vinh. Tháng 12/1964, tại thành phố Béclin (Đức), Hội đồng Hòa bình thế giới ra quyết nghị kỷ niệm 200 năm Ngày sinh Nguyễn Du cùng với một số danh nhân văn hóa tiêu biểu của thế giới. Tiếp đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 112-CT/TW ngày 26/10/1965 về việc kỷ niệm Nguyễn Du, mở ra một giai đoạn mới trong nghiên cứu, khẳng định và tôn vinh Nguyễn Du và các di sản của ông. Trên cơ sở đó, nhiều đợt kỷ niệm quy mô lớn tiếp tục được tổ chức, nhất là các dịp 240 năm, 245 năm Ngày sinh của Nguyễn Du do Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), Hội Nhà văn Việt Nam và tỉnh Hà Tĩnh phối hợp thực hiện. Đặc biệt, năm 2013, tại kỳ họp lần thứ 37, Đại hội đồng UNESCO đã thông qua Nghị quyết 37C/15 vinh danh Nguyễn Du là Danh nhân văn hóa thế giới.
Truyện Kiều và toàn bộ di sản của Nguyễn Du đã được kiểm chứng qua hơn hai thế kỷ đầy biến cố và thăng trầm. Dù ngày nay, bối cảnh lịch sử đã khác, tâm lý xã hội cùng các quan niệm, thị hiếu và thước đo cũng khác, nhưng “Nguyễn Du đã vượt qua nỗi sợ hãi lớn nhất cũng là thử thách cao nhất đối với một nhà thơ, đó là tính nhất thời” (Nhà thơ Hữu Thỉnh) để những tác phẩm của ông vẫn nguyên vẻ thanh tân và giá trị thời đại sâu sắc.
Khôi Nguyên
Bài 2: Truyện Kiều - áng văn bất hủ
Nguồn Thanh Hóa : https://vhds.baothanhhoa.vn/ky-niem-260-nam-ngay-sinh-dai-thi-hao-nguyen-du-1765-2025-nbsp-bai-1-danh-nhan-van-hoa-the-gioi-40817.htm