Nghị định 207/2025 đã mở ra cơ hội cho phụ nữ độc thân toàn quyền chủ động thực hiện quyền làm mẹ khi có nguyện vọng, đánh dấu bước tiến lớn về mặt pháp lý, phù hợp với thành tựu y khoa về kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) ở Việt Nam.
Qua hơn 35 năm đổi mới và hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng. Một trong số đó là sự công nhận, tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Theo đó, các cơ quan nhà nước đã không ngừng hoàn thiện các văn bản pháp luật nhằm ghi nhận quyền con người, quyền công dân với các bảo đảm pháp lý vững chắc.
Nghị quyết 27-NQ/TW ngày 9-11-2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nhấn mạnh “Những vấn đề thực tiễn đòi hỏi, đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, có sự thống nhất cao thì kiên quyết thực hiện”.
Từ cơ sở chính trị này, rất nhiều các văn bản pháp luật điều chỉnh vấn đề thực hiện quyền con người, quyền công dân được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nhằm bảo đảm sự phù hợp với thực tiễn. Trong bối cảnh đó, việc Chính phủ ban hành Nghị định 207/2025 nhằm trao quyền chủ động tuyệt đối cho phụ nữ độc thân (phụ nữ không có quan hệ hôn nhân) được sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là một quy định hết sức tiến bộ.
BS đang tư vấn quá trình thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm. Ảnh: THU DỊU
Trước đây, theo Nghị định 10/2015, kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) chỉ áp dụng cho các cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân trong trường hợp có chỉ định y tế của bác sĩ chuyên khoa. Điều đó có nghĩa là phụ nữ độc thân muốn sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì phải có “lý do y tế” như bị vô sinh hay bị bệnh lý sinh sản khác. Tuy nhiên, việc xác định “lý do y tế” lại là vấn đề khá nhạy cảm và không phải lúc nào cũng có góc nhìn thống nhất giữa các bên liên quan.
Theo thống kê của Bộ Y tế, kỹ thuật IVF đã được thực hiện tại Việt Nam từ năm 1998 và đạt tỉ lệ thành công cao. Tính đến nay, đã có hơn 150.000 trẻ được sinh ra nhờ kỹ thuật này. Cả nước hiện có hơn 50 cơ sở hỗ trợ sinh sản, nhiều nơi đã làm chủ các công nghệ tiên tiến trên thế giới, với tỉ lệ thành công của IVF lên đến 70%, tương đương các trung tâm lớn ở nước ngoài. Đặc biệt, chi phí thực hiện tại Việt Nam chỉ bằng 1/3 đến 1/5 so với nhiều quốc gia trong khu vực. Thế nhưng chính rào cản pháp lý trong việc xác định “lý do y tế” lại làm cho nhiều phụ nữ độc thân khó khăn trong việc thực hiện ước mơ làm mẹ của mình.
Với Nghị định 207/2025 (chính thức có hiệu lực từ ngày 1-10-2025), phụ nữ độc thân chỉ cần có nguyện vọng là đã đủ điều kiện sử dụng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Đây là bước tiến quan trọng, mở rộng quyền tự chủ sinh sản cho những phụ nữ không kết hôn nhưng vẫn mong muốn được làm mẹ. Có thể thấy Nghị định 207/2025 đánh dấu một bước thay đổi đáng chú ý trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản tại Việt Nam, tạo điều kiện cho phụ nữ độc thân toàn quyền chủ động thực hiện quyền làm mẹ khi có nguyện vọng.
Sau khi có Nghị định 207/2025, bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Thông tư 38/2025/TT-BYT quy định rõ tiêu chuẩn sức khỏe của người nhận tinh trùng, noãn hoặc phôi. Việc nới rộng điều kiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã làm cho các quy định pháp luật trở nên nhân văn hơn, an toàn và minh bạch hơn. Các quy định mới trong Nghị định 207/2025 và Thông tư 38/2025/TT-BYT đã lan tỏa một thông điệp tích cực là Nhà nước luôn quan tâm đến vấn đề dân số và bảo đảm quyền làm cha, làm mẹ của những người có khó khăn nhất định trong việc mang thai theo phương thức tự nhiên.
Không dừng ở đó, để thủ tục hành chính liên quan đến cấp giấy chứng sinh trở nên thông thoáng, đồng bộ với chính sách tiến bộ, trao quyền chủ động tuyệt đối cho phụ nữ độc thân được sử dụng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Thông tư 22/2025/TT-BYT quy định về cấp và sử dụng giấy chứng sinh. Với những bước tiến trong thủ tục cấp và sử dụng giấy chứng sinh, thủ tục liên thông cấp giấy khai sinh cho trẻ em sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản cũng sẽ trở nên cụ thể, rõ ràng và thông thoáng hơn.
Với chính sách mở rộng quyền sinh sản hợp pháp cho phụ nữ độc thân kết hợp quy định sinh đủ hai con trong độ tuổi lý tưởng sẽ được thưởng tiền đã cho thấy Nhà nước ta rất chú trọng đến vấn đề khuyến khích sinh sản. Việc khuyến khích sinh sản tích cực không chỉ bảo đảm cân bằng giữa tỉ lệ sinh - tử mà còn nhằm hạn chế tình trạng già hóa dân số, từ đó dẫn đến thiếu nguồn nhân lực xã hội. Rõ ràng sự điều chỉnh về chính sách dân số của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian qua là rất tương thích, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế trong kỷ nguyên mới của đất nước.
TS CAO VŨ MINH, Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐH Quốc gia TP.HCM