Khe Sanh là cứ điểm đóng tại đường 9 thuộc huyện Hướng Hóa – Quảng Trị. Là cứ điểm quan trọng của Mỹ - Ngụy trên tuyết đường 9. Trận Khe Sanh là trận đánh mở đầu cho chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 của quân và dân ta…
Ông Hoàng Phổ - Tiểu đội trưởng tiểu đội 9, trung đội 3, Đại đội 3 - Tiểu đoàn 17 Sư đoàn 304.
Ngày 8/11/1967, Đại đội 3 Tiểu đoàn 17 Sư đoàn 304 với trang bị vũ khí, quân trang bắt đầu cuộc hành quân về phía Nam. Phải mất hơn 1 tháng, vượt qua các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và dãy Trường Sơn, sau khi vượt qua dốc Nguyễn Chí Thanh (cao 1.700 bậc), đi tiếp 2 ngày thì dừng chân nghỉ ở khu rừng già rộng rãi, bằng phẳng, và nhiều dấu vết của bộ đội, những đoàn quân đã qua đây vào Nam ra Bắc: Bếp Hoàng Cầm, cọc mắc võng, tro bếp, vỏ thịt hộp…
Sau này tôi mới biết đây chính là binh trạm 30A; một đầu mối giao thông và giao liên, căn cứ hậu cần lớn nhất. Từ binh trạm này, các đoàn quân tỏa đi các chiến trường B, C, K… nó giống như ga Hà Nội với hệ thống giao thông đường sắt… Nghỉ lại một ngày ở binh trạm 30A, tắm giặt và nhận thêm lương thực, thực phẩm rồi đi tiếp.
Sáng hôm sau, đột nhiên chúng tôi nhận được lệnh: “Chỉ hành quân theo đội hình trung đội”. Có một du kích địa phương dẫn đường, tách khỏi đường giao liên và đi về phía Đông. Đi thêm 2 ngày nữa, chiều dừng lại ở khu bản của người Lào. Hỏi người dẫn đường thì được biết đây là bên Tam Thanh, nằm ngay bờ nam sông Sepon. Con sông này là biên giới giữa Lào và Việt Nam, qua Lao Bảo và chảy tiếp về phía Nam.
Cuối tháng 12 là mùa khô, nước sông Sepon rất cạn, có chỗ nước chỉ sâu quá đầu gối, xắn quần lội qua là được. Sáng sớm hôm sau, trung đội của tôi qua sông và đi tiếp trên đất Việt khoảng 2 giờ, toàn trung đội ngồi nghỉ bên bờ suối đá, bên cạnh là rừng cây lúp xúp khá trống trải. Trên bản đồ, đây là khu vực bản Satoanpero, dân bản đã bỏ đi từ lâu.
Trung đội trưởng Phạm Công Tâm hội ý 3 tiểu đội trưởng. Lúc này, tôi là tiểu đội trưởng tiểu đội 9, trung đội 3. Trung đội trưởng là bộ đội tình nguyện tại ngũ, anh quê ở Đông Quan, Thái Bình.
Khi triển khai nhiệm vụ, anh nói đơn giản: “Chúng ta được giao nhiệm vụ, trong thời gian ngắn nhất phải mở một con đường từ đây đến cứ điểm Khe Sanh. Yêu cầu của con đường là: Giành cho bộ đội hành quân có thể mang vác, khiêng cáng, đi ban ngày hoặc ban đêm. Con đường mới phải đảm bảo bí mật, không đi theo đường mòn, không đi qua bãi trống, ngắn nhất và đi lại dễ dàng…”.
Để làm được công việc mở đường trong rừng núi khó khăn này, cần chia hai bộ phận: Trinh sát mở đường và thi công mở đường. Trinh sát là việc khó nhất, cần người sử dụng thành thạo bản đồ quân sự, địa bàn để xác định rõ địa hình và vạch ra tuyến đường. Nếu không chính xác một chút thôi là bị lạc hướng, không đến được điểm cần đến, đâm vào dốc đá dựng đứng… là không đi được phải bỏ. Quá trình mở đường có thể gặp biệt kích địch.
Đoàn 559, hay còn gọi là Bộ đội Trường Sơn, là đơn vị quân sự chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam, được thành lập ngày 19/5/1959 với nhiệm vụ chính là mở đường, xây dựng và bảo vệ tuyến vận tải quân sự chiến lược Trường Sơn (Đường Hồ Chí Minh), chi viện sức người, sức của và vũ khí cho chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trở thành con đường huyền thoại trong lịch sử chiến tranh Việt Nam
Cứ điểm Làng Vây cách đây hơn chục cây số có một tiểu đoàn biệt kích Ngụy, hàng ngày chúng tỏa ra lùng sục hai bên đường 9 để phát hiện sự hoạt động của quân giải phóng; hỗ trợ cho hàng rào điện tử Macnamara khu vực đường 9, Quảng Trị.
Phổ biến nhiệm vụ xong, Trung đội trưởng Phạm Công Tâm rút ra tấm bản đồ quân sự huyện Hưng Hóa, lấy ống nhòm, địa bàn rồi tuyên bố: “Trung đội giao tổ trưởng tổ trinh sát mở đường là đồng chí Hoàng Phổ, sẽ cùng hai chiến sĩ xác định hướng tuyến đường, vạch, đánh dấu trên đường để lực lượng phía sau chặt cây, bạt dốc, làm cầu qua suối…”.
Lần đầu tiên vào rừng, từ cậu học sinh đồng bằng, chưa bao giờ biết tấm bản đồ quân sự, nhìn bản đồ, chỉ thấy những đường vằn vèo, xanh đỏ, màu sắc khác nhau… Đọc để sử dụng bản đồ vào công việc là rất khó, thường những nhà thám hiểm hoặc trinh sát chuyên nghiệp họ mới sử dụng thành thạo. Thực ra, công việc này là trung đội trưởng hoặc chí ít là trung đội phó thực hiện, tôi lại là người “bị” ưu ái phải làm công việc khó khăn nhất này.
Để mở đường ở một nơi xa lạ, lại trong rừng sâu núi thẳm, người trinh sát tuyến như người thợ cả, anh ta phải biết giữa bạt ngàn rừng núi, anh ta đang ở chỗ nào, trên thực địa và trên bản đồ, từ chỗ xuất phát đến địa điểm cần đến địa hình như thế nào, có thể đi được không, phải vượt qua bao nhiêu trở ngại về đèo, dốc, suối, sông… Sau gần hai giờ nghiên cứu, làm quen với bản đồ quân sự. Bây giờ công việc bắt đầu. Tôi đọc bản đồ, sử dụng la bàn định hướng và chỉ cho mọi người hướng đi của con đường. Hai chiến sẽ căn cứ định hướng của tôi, dùng dao đẽo vỏ cây để đánh dấu hai bên đường. Từ những vết đẽo đánh dấu trên thân cây, tốp chiến sĩ đi sau thực hiện chặt cây, dọn mặt đường, làm bậc ở những chỗ dốc, bắc cầu khi vượt suối…
Người “thợ cả” phải hình dung các trở ngại trước mặt và định hình biện pháp khắc phục. Chúng tôi lặng lẽ xuyên rừng mở đường, còn địch bất kể ngày đêm đủ loại máy báy hoạt động 24/24 như máy bay trinh sát L-19, OV-10A, C-130, trực thăng các loại. Điểm nào nghi ngờ thì chúng bắn đạn khói, ban đêm thì bắn pháo sáng gọi phản lực đến bắn phá, ném bom. Chỗ nào nghi ngờ có đông bộ đội hoặc kho tàng thì chúng gọi B-52 ném bom rải thảm hoặc rải bom bi.
Đặc biệt, ban ngày trực thăng quần đảo sát ngọn cây, hai bên của trực thăng là những tên lính súng lăm lăm trong tay, sẵn sàng nhả đạn khi nghi ngờ… Đến ngày thứ hai, công việc thuận lợi với tôi, tôi đã thành thạo hơn khi nhận biết địa hình qua bản đồ, đã hình dung được hướng đi của con đường.
Quân giải phóng truy kích địch trong chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh. (Ảnh: T.L - Quân khu 4).
Đường vào Khe Sanh là những cánh rừng từ lâu không có dấu chân người, không có dấu chặt cây. Ở những chỗ trũng, gần khe suối ẩm ướt có nhiều dấu chân voi còn rất mới, rồi dấu chân lợn rừng, dấu chân hoẵng… ở những đoạn suối đá pha đất, cua đồng ẩn nấp dưới những viên đá, chỉ cần luồn tay vào hoặc lật viên đá lên là bắt được cua.
Cứ như vậy, con đường vươn dài về hướng Khe Sanh. Ngoài chuyện ngày đêm máy bay quần đảo trên đầu thỉnh thoảng chúng tôi lại bắt gặp “cây nhiệt đới” địch thả xuống để thu phát tiếng động và phát tín hiệu về trung tâm chỉ huy của địch. Cây nhiệt đới có cấu tạo hình tròn đường kính khoảng 5 - 6cm, dài khoảng 50cm, dựng đứng, trên đầu có các ăng ten giống lá dương xỉ, sơn màu lá cây, bên trong là thiết bị thu phát âm thanh, chỉ nhìn kỹ mới phát hiện được.
Trước các thủ đoạn của địch, bộ đội ta luôn giữ nếp sinh hoạt ở chiến trường là: “Đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng” để che mắt địch, tuyệt đối giữ bí mật mọi lúc, mọi nơi… Cây nhiệt đới chính là thiết bị mắt xích trong hệ thống hàng rào điện tử của địch để phong tỏa và khống chế hai bên đường 9.
Trước hành động của địch là dùng máy bay trinh sát, thám báo mặt đất, cây nhiệt đới cảnh giới rất cao, bộ đội ta lại không tiến quân theo đường Vĩnh Linh vào Quảng Trị mà đánh lạc hướng địch bằng cách hành quân qua đất Lào, đi thẳng vào phía nam rồi từ đây trở về biên giới Việt Nam và ngược ra Quảng Trị.
Sau này tôi mới biết: “Để đánh lạc hướng đánh giá và điều động quân của địch, Đại đoàn 304 cho một tổ công tác mang theo máy thông tin 15W đi theo đường giao liên về phía nam. Hàng ngày cứ đến giờ cố định, lên máy, thông tin với Bộ tổng tham mưu ở Hà Nội cứ như có đại đoàn đang hành quân vào Tây Nguyên để thu hút địch. Trong khi đó, cả đại đoàn im hơi lặng tiếng ém quân ở Quảng Bình, Quảng Trị chờ lệnh nổ súng mở đầu chiến dịch Mậu Thân 1968. Việc mở đường của chúng tôi ban đầu bỡ ngỡ, từ ngày thứ ba trở đi công việc trôi chảy, cái chính là tôi đã tương đối thành thạo và cẩn thận trong việc đánh giá, xử lý tình huống để không mắc sai lầm.
Giấy chứng nhận danh hiệu "Dũng sĩ" của ông Hoàng Phổ.
Tôi nhớ, đến ngày thứ năm con đường đã tiến đến phía tây bản Húc Thượng, Húc Hạ. Cứ “chọc” và mở đường từ sáng đến chiều, làm việc liên tục thì khi quay trở lại mất khoảng 1 giờ. Lúc trở về ai cũng đi rất nhanh để trở về chỗ trú quân, chui vào hầm nghỉ ngơi. Cứ ba người nằm chung một hầm kèo. Hầm làm có chiều dài 2,2m chiều rộng thực dụng 1,4m và đến nóc kèo là 1,3m.
Cứ làm việc cật lực, mỗi ngày được khoảng 4-5km đường rừng. Đến ngày thứ 6, tình huống không mong muốn xảy ra, hết gạo, hình như đó là ngày 1/1/1968 dương lịch. Chúng tôi phải tạm ăn củ chuối rừng và rau môn thục ở ven suối cho qua bữa chờ anh em đi lấy gạo về. Rừng ở đây bạt ngàn chuối rừng và rau môn thục. Ở những bản cũ bà con Vân Kiều đã bỏ đi từ lâu bây giờ cỏ mọc, vài cây cau và đặc biệt rất nhiều cây lá lốt, anh nuôi hái lá lốt về nấu canh cho bộ đội ăn.
Đường mở đến ngày thứ 6, thứ 7 gì đó thì đến gần cứ điểm Khe Sanh, không thể mở đường vì gần cứ điểm địch sẽ đi tuần và phát hiện. Dừng lại tại đây, chúng tôi bàn giao tuyến đường cho sư đoàn và nhận nhiệm vụ mới là chuẩn bị cho trận đánh và cứ điểm biệt kích Làng Vây.
Thế rồi ngày 23/1/1968 trung đoàn 66 sư đoàn 304 do trung tá Nguyễn Văn Ân trung đoàn trưởng chỉ huy nổ súng tiến đánh và tiêu diệt cứ điểm Khe Sanh. Đây là trận đánh mở đầu chiến dịch tấn công và nổi dậy đồng loạt toàn miền Nam của quân và dân ta năm 1968. Trận đánh tiêu diệt cứ điểm Khe Sanh làm nức lòng quân dân cả nước và bè bạn trên thế giới.
Chúng tôi là những người đã góp công vào thắng lợi đó. Thật vinh dự và tự hào như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Công binh là người đi trước mở đường thắng lợi!”.
Hoàng Phổ
Chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh còn được gọi là "Chiến dịch Đường 9" hay "Trận Khe Sanh", là một chiến dịch chính yếu trong chiến cục năm 1968 tại Việt Nam. Khe Sanh đã trở thành nơi mà lần đầu tiên, quân đội Hoa Kỳ phải rút bỏ một căn cứ quân sự trọng yếu bởi áp lực của quân giải phóng Việt Nam.