Kỳ vọng sớm gỡ nút thắt xử lý nợ xấu

Kỳ vọng sớm gỡ nút thắt xử lý nợ xấu
8 giờ trướcBài gốc
Các chuyên gia phân tích của Vietnam Report cảnh báo rủi ro nợ xấu vẫn còn hiện hữu khi Thông tư 02 đã chính thức hết hiệu lực từ ngày 1/1/2025. Các khoản nợ tái cơ cấu không còn được ưu đãi và sẽ phải phân loại lại, có thể đẩy một lượng nợ lớn vào nhóm nợ xấu. Lãnh đạo nhiều nhà băng chung nhận định, nợ xấu và nợ tiềm ẩn có thể gia tăng trong năm 2025 do biến động mới của thị trường toàn cầu. Ông Nguyễn Đức Vinh, Tổng giám đốc VPBank cho hay, ngân hàng xác định nợ xấu sẽ có xu hướng bộc lộ rõ trong 6 tháng đầu năm 2025. Một phần lý do là các khoản cho vay bất động sản được cơ cấu trong năm 2024 đến nay hết thời gian cơ cấu và phải phản ánh lại theo đúng thực trạng. Theo ông Vinh, tình trạng nợ xấu bất động sản đang tăng lên trong quý I và quý II/2025, nhưng sẽ được kiểm soát và ổn định từ nửa cuối năm trở đi.
Nợ xấu gia tăng trong khi cơ chế xử lý còn nhiều vướng mắc, gây khó khăn không chỉ cho hệ thống ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Bởi phần nợ xấu tồn đọng như một “cục máu đông” kéo dài từ năm này qua năm khác, gây thiệt hại cho cả ngân hàng và người thế chấp. Tài sản bị phong tỏa, kê biên, niêm phong không thể đưa vào khai thác hay sử dụng, dẫn đến lãng phí nguồn lực rất lớn.
Đáng lo ngại hơn, kể từ khi Nghị quyết 42/2017/QH14 hết hiệu lực vào cuối năm 2023, hệ thống pháp lý lại rơi vào khoảng trống, thiếu cơ chế đặc thù để tiếp tục xử lý nợ xấu một cách kịp thời và triệt để. Trong giai đoạn 2017- 2023, Nghị quyết 42/2017/QH14 đã tạo ra một cơ chế đặc thù, giúp các TCTD xử lý tài sản bảo đảm nhanh chóng và hiệu quả hơn. Thực tế, kể từ khi triển khai nghị quyết, toàn hệ thống đã xử lý được khoảng 443.000 tỷ đồng nợ xấu, bình quân khoảng 5.800 tỷ đồng/tháng cao gấp gần 3 lần mức trước đó chỉ khoảng 2.140–2.280 tỷ đồng/tháng.
Chính vì vậy, theo TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam, việc hoàn thiện hành lang pháp lý không chỉ đơn thuần là một yêu cầu kỹ thuật, mà còn là điều kiện tiên quyết để giải phóng nguồn lực đang bị “đóng băng” trong hệ thống tín dụng. Tác động kép từ nợ xấu là rất rõ rệt. Vốn không quay vòng được, trong khi tài sản bảo đảm đi kèm lại không thể xử lý do vướng pháp lý, khiến hệ thống ngân hàng vừa mất vốn, vừa bị “giam” tài sản. Điều này làm gia tăng chi phí trích lập dự phòng, từ đó đẩy lãi suất cho vay tăng cao - một hệ lụy mà toàn nền kinh tế phải gánh chịu.
Vị chuyên gia này cho rằng, quyền thu giữ tài sản bảo đảm vốn là điều phổ biến ở nhiều quốc gia, được pháp luật bảo vệ như một quyền dân sự đương nhiên. Tuy nhiên, tại Việt Nam, quyền này chưa được thể chế hóa một cách đầy đủ, gây cản trở lớn cho việc thi hành hợp đồng tín dụng và xử lý nợ.
Chung quan điểm, ông Đỗ Thiên Anh Tuấn - Giảng viên Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright cho rằng, quyền thu hồi tài sản trở thành công cụ pháp lý cốt lõi, đảm bảo dòng vốn lưu thông và thị trường tín dụng vận hành ổn định. Chính vì vậy, cần luật hóa những quy định đã áp dụng thành công từ Nghị quyết 42/2017/QH14 để đảm bảo quyền thu giữ tài sản hợp pháp của ngân hàng và cũng bảo vệ quyền tài sản của bên đi vay. “Hai quyền này phải được cân bằng dựa trên các nguyên lý gồm: tăng độ bao phủ rủi ro cho ngân hàng, giảm chi phí sử dụng vốn cho người đi vay, cải thiện được khả năng tiếp cận tín dụng cho nền kinh tế”, ông Tuấn lưu ý.
Nhưng nội dung trên đã được các đại biểu bàn thảo kỹ tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đang diễn ra nhằm tháo gỡ “nút thắt” trong xử lý nợ xấu, nhất là trong bối cảnh nợ xấu của ngành Ngân hàng có xu hướng gia tăng. Một trong những nội dung quan trọng của dự thảo Luật Các TCTD (sửa đổi) là luật hóa quyền thu giữ tài sản đảm bảo (được quy định trong Nghị quyết 42/2017/QH14). Tại dự thảo mới nhất có sự điều chỉnh so với Nghị quyết số 42, cụ thể là bãi bỏ điều kiện thu giữ: “tài sản đảm bảo không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền” (quy định tại điểm d khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 42). Theo báo cáo của Chính phủ, dự thảo Luật không quy định điều kiện này nhằm tránh trường hợp khách hàng có thể phối hợp với bên thứ ba tạo ra tranh chấp và đưa sự việc ra giải quyết tại Tòa án như một hình thức để tránh việc bị thu giữ tài sản đảm bảo… Liên quan đến việc luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm, đại biểu Quốc hội Phạm Đức Ấn cho rằng, quy định này nhằm đảm bảo nguyên tắc “có vay, có trả”, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền.
Giới chuyên môn kỳ vọng, những vướng mắc pháp lý hiện nay sớm được tháo gỡ để tạo điều kiện thuận lợi hơn trong xử lý nợ xấu. Bởi việc xử lý nợ xấu hiệu quả không chỉ giúp giảm áp lực trích lập dự phòng rủi ro cho các ngân hàng, mà còn gia tăng khả năng cung cấp tín dụng, góp phần kéo giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân trong bối cảnh nhiều thách thức kinh tế.
Hạ Chi
Nguồn TBNH : https://thoibaonganhang.vn/ky-vong-som-go-nut-that-xu-ly-no-xau-165714.html