Lãi suất ngân hàng tiếp tục tăng: Ngân hàng tư nhân đua nâng lãi suất cuối năm

Lãi suất ngân hàng tiếp tục tăng: Ngân hàng tư nhân đua nâng lãi suất cuối năm
6 giờ trướcBài gốc
Lãi suất huy động tăng mạnh tại các ngân hàng tư nhân
Trong những tháng gần đây, mặt bằng lãi suất huy động tại các ngân hàng đang có dấu hiệu tăng trở lại một cách rõ rệt. Khảo sát cho thấy, hơn mười ngân hàng tư nhân đã điều chỉnh biểu lãi suất tiết kiệm, trong đó một số ngân hàng tăng tới 0,6–1% so với tháng trước, phần lớn dao động trong khoảng 0,1–0,5%. Nhiều kỳ hạn ngắn dưới 6 tháng đã đạt mức trần 4,75%/năm, trong khi các kỳ hạn 12–13 tháng tại một số ngân hàng tư nhân vượt mốc 6%/năm.
Trong khi nhóm ngân hàng quốc doanh vẫn duy trì lãi suất ổn định, các ngân hàng tư nhân lại bước vào “cuộc đua” huy động vốn với mức lãi suất cao hơn. Đây là thời điểm cuối năm, khi nhu cầu huy động vốn và áp lực thanh khoản tăng cao, khiến nhiều ngân hàng phải điều chỉnh biểu lãi suất để đảm bảo nguồn vốn phục vụ hoạt động cho vay và đáp ứng nhu cầu tăng trưởng tín dụng.
Trong những tháng gần đây, mặt bằng lãi suất huy động tại các ngân hàng đang có dấu hiệu tăng trở lại một cách rõ rệt.
Mới đây, VIB vừa điều chỉnh tăng lãi suất huy động cho tất cả các kỳ hạn từ 1 đến 36 tháng. Lãi suất tiết kiệm trực tuyến lĩnh lãi cuối kỳ tăng từ 0,2% đến 0,75%/năm tùy kỳ hạn. Theo đó, kỳ hạn 1 tháng tăng lên 4%/năm, 2 tháng 4,1%/năm, trong khi kỳ hạn từ 3 đến 5 tháng đạt mức tối đa 4,75%/năm theo quy định của Ngân hàng Nhà nước đối với tiền gửi dưới 6 tháng. Các kỳ hạn dài hơn từ 6 đến 36 tháng được điều chỉnh lên mức từ 5% đến 5,6%/năm. Ngoài ra, ngân hàng áp dụng chính sách cộng thêm lãi suất 0,5–1%/năm cho khách hàng ưu tiên hoặc khách hàng mới, giúp lãi suất thực tế có thể lên tới 6,6%/năm.
TPBank cũng tăng lãi suất thêm 0,1–0,2%/năm cho các kỳ hạn ngắn, đưa lãi suất kỳ hạn 1 tháng lên 3,9%/năm, kỳ hạn 6 tháng 5,1%/năm và kỳ hạn 9 tháng 5,3%/năm. Từ đầu tháng 11 đến nay, đã có 19 ngân hàng điều chỉnh lãi suất, trong đó 18 ngân hàng tăng lãi và chỉ một ngân hàng giảm lãi kỳ hạn trung dài. Không chỉ tập trung vào kỳ hạn ngắn, nhiều ngân hàng còn đẩy mạnh lãi suất dài hạn, đặc biệt cho các khoản tiền lớn hoặc khách hàng đặc biệt. Chẳng hạn, PVcomBank áp dụng lãi suất đặc biệt 9%/năm cho kỳ hạn 12–13 tháng với số dư tối thiểu 2.000 tỷ đồng. HDBank áp dụng lãi suất 8,1%/năm cho kỳ hạn 13 tháng với số dư tối thiểu 500 tỷ đồng. Bac A Bank, Viet A Bank, LPBank và một số ngân hàng khác cũng niêm yết mức lãi suất từ 6 đến 6,8%/năm cho các kỳ hạn dài, kèm điều kiện số tiền gửi lớn.
Vì sao lãi suất huy động tăng
Nguyên nhân chính khiến lãi suất huy động tăng thời gian qua xuất phát từ nhiều yếu tố liên quan đến thanh khoản, tín dụng và kỳ vọng lạm phát. Cuối tháng 6/2025, thị trường liên ngân hàng chứng kiến cú sốc thanh khoản khi lãi suất qua đêm VND tăng từ 1,62% lên 6,45%/năm chỉ trong một tuần, trong khi kỳ hạn 1 tuần và 1 tháng cũng tăng mạnh. Ngân hàng Nhà nước phải bơm ròng hơn 90.000 tỷ đồng qua công cụ OMO để ổn định thị trường. Sang tháng 10/2025, NHNN tiếp tục bơm ròng hơn 40 nghìn tỷ đồng nhằm giảm áp lực lãi suất ngắn hạn. Dù cung tiền M2 tăng 7,5% trong 7 tháng đầu năm, áp lực từ tăng trưởng tín dụng nhanh và các dòng vốn đặc thù vẫn khiến thanh khoản thị trường căng thẳng.
Bên cạnh đó, nhu cầu tín dụng tăng mạnh cũng là nguyên nhân quan trọng. Cuối năm thường là thời điểm doanh nghiệp đẩy mạnh vay vốn để nhập hàng Tết, mở rộng sản xuất và xuất khẩu. Trong khi tăng trưởng tín dụng đạt 10,28% thì huy động chỉ tăng 7,46%, dẫn đến tỷ lệ LDR toàn ngành lên tới 109%, tức tổng dư nợ cho vay đã vượt tổng tiền gửi khách hàng. Khoảng trống vốn này buộc các ngân hàng phải đẩy lãi suất huy động lên, đặc biệt ở các kỳ hạn 6–12 tháng phục vụ nhu cầu vốn dài hạn.
Áp lực từ trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn cũng góp phần làm tăng lãi suất. Mặc dù trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn có xu thế giảm, nhưng vẫn duy trì ở mức trên 120 nghìn tỷ đồng trong 6 tháng cuối năm. Nhiều doanh nghiệp không đủ khả năng thanh toán ngay, buộc các ngân hàng, vốn là chủ nợ lớn, phải cung cấp vốn lưu động hoặc hỗ trợ tái cơ cấu. Đồng thời, nhà đầu tư cá nhân nhận tiền từ trái phiếu đáo hạn nhưng không gửi lại ngân hàng mà chuyển sang các kênh khác như USD, vàng hoặc bất động sản, làm giảm nguồn huy động và buộc ngân hàng tăng lãi suất để bù đắp.
Ngoài ra, lạm phát kỳ vọng tăng cũng thúc đẩy lãi suất huy động. Mặc dù lạm phát thực tế vẫn dưới 4%, giá xăng dầu, dịch vụ y tế và giáo dục tăng cùng với chi phí đầu vào tại nhiều ngành sản xuất khiến kỳ vọng lạm phát tăng. Khi kỳ vọng lạm phát cao hơn, người dân yêu cầu mức lãi suất tiết kiệm cao hơn để đảm bảo lãi suất thực dương, đặc biệt ở các kỳ hạn 6–12 tháng, vốn là nơi tập trung nhiều nhà đầu tư cá nhân.
Nhìn chung, lãi suất huy động tăng vào cuối năm là hiện tượng bình thường trong chu kỳ tín dụng và nhu cầu vốn gia tăng. Tuy nhiên, điều quan trọng không chỉ nằm ở diễn biến lãi suất mà còn ở khả năng duy trì thanh khoản thị trường, kiểm soát lạm phát và giảm thiểu rủi ro hệ thống. Việc điều hành cần đảm bảo dòng vốn lưu thông ổn định, tránh căng thẳng thanh khoản kéo dài, đồng thời giữ môi trường lãi suất phù hợp để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững.
Tuấn Linh, Lê Hoàng/VOV.VN
Nguồn VOV : https://vov.vn/kinh-te/lai-suat-ngan-hang-tiep-tuc-tang-ngan-hang-tu-nhan-dua-nang-lai-suat-cuoi-nam-post1248525.vov