Quanh vụ việc sản xuất thực phẩm giả xảy ra tại Công ty TNHH MTV MQ FOOD ở xã Vĩnh Hưng (tỉnh Phú Thọ), điều gây chú ý cho dư luận khi cơ quan điều tra phát hiện cả một làng cùng sản xuất thịt trâu gác bếp “nhái”. Số lượng thịt đầu vào lên tới vài nghìn tấn, đa số là thịt trâu Ấn Độ (vốn rẻ tiền hơn) được hô biến thành thịt trâu Hà Giang để bán giá cao, đạt lợi nhuận cao hơn.
Bài học bảo vệ nông sản bản địa
Nhiều ý kiến bày tỏ sự phẫn nộ về trách nhiệm quản lý của chính quyền địa phương khi để cả làng sản xuất thịt trâu giả mạo xuất xứ như vậy. Không chỉ thế, việc này còn ảnh hưởng đến thương hiệu thịt trâu bản địa ở Hà Giang.
Vụ việc thịt trâu Ấn Độ được hô biến thành thịt trâu Hà Giang sản xuất thịt trâu gác bếp “nhái” là bài học cho nông sản bản địa trước mối nguy giả mạo xuất xứ.
Đây cũng là bài học để các doanh nghiệp (DN) trong ngành hàng nông sản thực phẩm không giẫm vào con đường giả mạo xuất xứ như MQ FOOD cũng như có giải pháp để hàng giả không xâm nhập vào chuỗi giá trị nông sản, nhằm vừa giữ uy tín DN và vừa bảo vệ thương hiệu nông sản bản địa trên thị trường “sân nhà” lẫn xuất khẩu (XK).
Nhất là việc kiểm soát chất lượng đầu vào của DN chế biến nông sản. Như lưu ý của chuyên gia tiêu chuẩn Hồ Ngọc Phương Thảo, một ngày nào đó, nếu cụm từ “DN sử dụng nguyên liệu không rõ nguồn gốc” xuất hiện trên báo chí với tên DN A, B, C…thì hậu quả không chỉ là pháp lý mà còn là uy tín thương hiệu.
Bên cạnh đó là vấn đề rủi ro truy xuất nguồn gốc. Theo bà Thảo, một số DN từng bị đình chỉ một sản phẩm chỉ vì nguyên liệu là trái cây, nông sản không có bao bì, không có nhãn, không có hồ sơ công bố. Nếu không có nhãn mà cũng không có hồ sơ công bố sản phẩm, thì DN không thể kiểm soát chất lượng đầu vào, cũng như không có cơ sở để truy xuất nguồn gốc khi có sự cố xảy ra.
Hoặc như uy tín của thương hiệu nông sản bản địa có thể mai một nếu như còn tiếp diễn tình trạng giả mạo. Điều này đã từng được Hội điều Bình Phước chỉ rõ khi nhiều đối tượng đã tranh thủ lúc người tiêu dùng còn mập mờ về hạt điều “chế biến từ Bình Phước” với hạt điều “trồng, chế biến tại Bình Phước” để kinh doanh trục lợi.
Như hồi năm rồi, Hội điều Bình Phước đã phản ánh một số website và mạng xã hội có nhiều tên miền, tài khoản, cơ sở nhỏ lẻ đăng sản phẩm thương hiệu “đặc sản Bình Phước” để bán. Thế nhưng qua xác minh những thông tin sản phẩm nêu trên không phải là hạt điều có nguồn gốc Bình Phước, mà là hạt điều nhập khẩu vụ cũ, kém chất lượng.
Hơn nữa, những sản phẩm giả mạo xuất xứ hạt điều Bình Phước (đã được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp chỉ dẫn địa lý “Hạt điều Bình Phước”) lại không có nhãn mác, không có hạn sử dụng…Do vậy, không có cơ sở truy xuất nguồn gốc chế biến, không biết ai là người chịu trách nhiệm về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Xét về giải pháp để ứng phó với mối nguy giả mạo xuất xứ nông sản như hiện nay, nhìn sang các quốc gia ASEAN, Ts. Trịnh Bá Dương, Chủ tịch AseanHub – chuyên gia đổi mới sáng tạo quốc gia, cho biết ở Thái Lan đã bắt đầu ứng dụng RFID (nhận dạng qua tần số vô tuyến) kết hợp Blockchain (công nghệ chuỗi khối) trong XK sầu riêng sang Trung Quốc – giúp theo dõi toàn bộ hành trình trái cây từ vườn đến cửa khẩu.
Còn với Việt Nam, theo ông Dương, chúng ta đã có những DN tiên phong trong ngành dược và nông sản áp dụng RFID và truy xuất số hóa, tuy nhiên quy mô còn nhỏ lẻ và thiếu tính liên kết vùng, liên kết ngành.
Vì vậy, khi đề cập đến việc ứng dụng công nghệ số trong truy xuất nguồn gốc nông sản, Ts. Dương nói đến tính thực tiễn và khả năng triển khai sâu rộng của mô hình kết hợp ba công nghệ: RFID – Blockchain – AI (trí tuệ nhân tạo).
Trong đó, RFID (Radio Frequency Identification) – hay còn gọi là công nghệ nhận dạng bằng sóng vô tuyến – cho phép gắn chip điện tử vào từng sản phẩm hoặc lô hàng. Mỗi chip RFID mang một mã định danh duy nhất, có thể lưu trữ thông tin và được quét không tiếp xúc. Điều này hạn chế tối đa khả năng làm giả vật lý, đồng thời cho phép tự động hóa khâu kiểm tra, kiểm kê, vận chuyển, lưu kho.
Nên ứng dụng công nghệ số để truy xuất nguồn gốc
Với Blockchain, theo ông Dương, đây là nơi lưu trữ toàn bộ dữ liệu từ RFID – tạo ra một sổ phân tán, bất biến và minh bạch. Mỗi thao tác cập nhật, mỗi bước vận hành – từ sản xuất, đóng gói, đến lưu thông – đều được ghi lại.
Theo đó, người tiêu dùng hoặc cơ quan quản lý có thể kiểm tra toàn bộ hành trình sản phẩm chỉ bằng một cú quét đơn giản, và quan trọng nhất – không ai có thể can thiệp hay sửa đổi những thông tin đó.
Còn với AI được xem là đóng vai trò phân tích các dữ liệu thu được từ hệ thống RFID và Blockchain. AI có thể phát hiện những điểm bất thường, cảnh báo rủi ro, hỗ trợ DN ra quyết định nhanh chóng.
Ts. Dương cho rằng sự kết hợp ba công nghệ này tạo nên một hệ thống truy xuất nguồn gốc chính xác – minh bạch – và tự động hóa, đủ sức đối phó với mọi hình thức làm giả hiện đại. Hệ thống này hoàn toàn có thể triển khai trong các lĩnh vực nông sản, logistics, thủy sản, và cả thương mại điện tử xuyên biên giới.
Riêng ở góc độ là một chuyên gia Quản lý chuỗi cung ứng và logistics, Ts. Nguyễn Cảnh Lam nêu rõ việc tăng cường khả năng truy xuất nguồn gốc sản phẩm vào chuỗi cung ứng là ưu tiên hàng đầu với DN.
Đồng tình với Ts. Trịnh Bá Dương về vấn đề sử dụng công nghệ Blockchain để ứng phó với tình trạng giả mạo xuất xứ, Ts. Lam nói rằng việc xây dựng các ứng dụng chia sẻ thông tin chuỗi cung ứng dựa trên công nghệ Blockchain có thể giúp DN chống lại hàng giả.
“Ví dụ trên mỗi bao gạo, người dùng có thể dùng điện thoại để quét mã QR và tự kiểm tra thông tin về nguồn gốc xuất xứ cũng như thông tin kho vận được lưu trên ứng dụng của nhà sản xuất sử dụng công nghệ blockchain”, ông Lam nói.
Theo vị chuyên gia này, Blockchain có ưu điểm rõ rệt so với công nghệ lưu trữ tập trung truyền thống – nơi thông tin có thể bị DN thao túng hay chỉnh sửa, khiến người dùng mất đi sự tin tưởng với những thông tin mà họ đọc được. Công nghệ Blockchain cung cấp một phương pháp bảo mật để theo dõi và xác minh tính xác thực của sản phẩm, đảm bảo tính toàn vẹn dữ liệu và khả năng truy xuất nguồn gốc, khiến hàng giả khó xâm nhập vào chuỗi cung ứng.
Xét cho cùng, sẽ có nhiều việc phải làm cho DN và cơ quan quản lý để đối phó mối nguy giả mạo xuất xứ nông sản. Và một trong những điều cần làm trước tiên là nên kiểm soát chuỗi cung ứng và tăng ứng dụng công nghệ số trong truy xuất nguồn gốc nhằm giảm thiểu sự phổ biến của hàng giả.
Thế Vinh