Mục tiêu của Việt Nam về vi mạch bán dẫn được đánh giá đúng thời điểm do sự hội tụ của nhiều yếu tố: lực lượng lao động kỹ thuật lành nghề và trẻ tuổi và nền tảng vững chắc về sản xuất chip hậu kỳ. Cùng với đó là sự ủng hộ của chính phủ và mối quan tâm ngày càng lớn của các doanh nghiệp công nghệ toàn cầu.
Tuy nhiên, mức độ sẵn sàng của ngành bán dẫn Việt Nam hiện mới chỉ thể hiện ở mảng lắp ráp, kiểm thử và đóng gói (ATP), theo báo cáo mới nhất từ Ngân hàng Thế giới dựa trên lực lượng lao động hiện tại, năng lực nghiên cứu và phát triển (R&D) và nền tảng công nghiệp.
Cùng với đó, dù Việt Nam đã hình thành năng lực ở mảng thiết kế hậu kỳ - chủ yếu gồm các khâu triển khai vật lý và kiểm thử xác minh nhưng phân khúc này ngày càng có nguy cơ bị tự động hóa bởi AI.
Mức độ sẵn sàng của ngành bán dẫn Việt Nam hiện mới chỉ thể hiện ở mảng lắp ráp, kiểm thử và đóng gói. Ảnh: Hoàng Anh
Theo phân tích của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam có thể đi theo ba hướng đi chiến lược để nâng cao vị thế trong ngành bán dẫn, dựa trên thế mạnh hiện có (ATP), cùng với năng lực ngày càng tăng trong các dịch vụ thiết kế hậu kỳ.
Ba hướng đi đó bao gồm mở rộng thiết kế hậu kỳ; chuyển sang thiết kế tiền kỳ, phát triển tài sản trí tuệ (IP) về vi mạch bản địa và sản phẩm hệ thống trong chip đầy đủ, với các công việc thiết kế giá trị cao và nguồn thu từ bản quyền; và nhảy vọt lên đóng gói tiên tiến, như công nghệ xếp chồng vi mạch 2.5D/3D và công nghệ tích hợp trong chip (System-in-Package - SiP).
Con đường nhiều chông gai
“Để vươn lên nấc thang giá trị cao hơn, Việt Nam cần chuyển sang thiết kế tiền kỳ - phân đoạn có giá trị gia tăng cao nhất trong chuỗi giá trị, chủ yếu dựa vào nguồn nhân lực, và cũng là khâu đòi hỏi nhiều R&D nhất trong toàn bộ chuỗi giá trị bán dẫn”, nhóm nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới khuyến nghị.
Tuy nhiên, khi chuyển dịch lên phân đoạn này, Việt Nam sẽ phải đối mặt với những khoảng cách nhân tài cả về số lượng và chất lượng ở nhiều phương diện.
Vấn đề với ngành bán dẫn Việt Nam sẽ không chỉ là nhiều nhân tài hơn, mà còn là nhân tài ở một tầm cỡ khác. Yêu cầu về trình độ học vấn sẽ tăng đáng kể, trong đó, khoảng 1/3 số vị trí việc làm tuyển dụng ở các doanh nghiệp thiết kế tiền kỳ tại các thị trường hàng đầu đòi hỏi bằng cấp sau đại học.
Bên cạnh đó, các lĩnh vực và ngành đào tạo cần thiết cũng sẽ đa dạng và rộng hơn.
Các ngành điện tử và kỹ thuật máy tính vẫn là cốt lõi, nhưng thiết kế tiền kỳ đòi hỏi phải mở rộng sang các lĩnh vực khác như khoa học vật liệu, vật lý ứng dụng và toán học – những lĩnh vực ngày càng liên quan đến kiến trúc vi mạch, vật liệu và quy trình mới, cũng như nghiên cứu về thiết bị mới.
Về mặt kỹ năng kỹ thuật, đây là khoảng cách lớn ngay cả với sinh viên mới tốt nghiệp. Các vị trí việc làm tuyển dụng ở các doanh nghiệp thiết kế vi mạch bán dẫn không tự sản xuất thường đòi hỏi kinh nghiệm thực tế về toàn bộ quy trình thiết kế vi mạch và các phương pháp luận chuyên sâu – những năng lực mà sinh viên tốt nghiệp của Việt Nam còn thiếu.
Đặc biệt, nhu cầu về thành thạo trí tuệ nhân tạo (AI) và máy học (ML) đang nổi lên là như một biến số mới trong kịch bản này.
Trong các doanh nghiệp thiết kế vi mạch hàng đầu, năng lực về AI/ML ngày càng được đòi hỏi kể cả đối với kỹ sư phần cứng, trong khi các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam chưa trang bị chuyên môn này cho sinh viên tốt nghiệp.
Thúc đẩy liên kết cơ sở giáo dục đại học – doanh nghiệp sẽ giúp bổ sung nguồn nhân tài cho Việt Nam. Ảnh: VinUni
Lấp đầy lỗ hổng
Ngân hàng Thế giới đánh giá, các cơ sở giáo dục đại học, viện nghiên cứu và khu công nghệ cao kết hợp lại sẽ là vườn ươm và là địa chỉ tuyển dụng lao động chủ đạo đối với những nhân tài về công nghệ tiên phong tại Việt Nam.
Tuy nhiên, hiện chưa có cơ sở giáo dục đào tạo đại học nào của Việt Nam nằm trong nhóm 100 hay 200 đại học hàng đầu thế giới về khoa học và kỹ thuật; các trung tâm đổi mới sáng tạo chuyên trách của quốc gia chưa đủ phát triển trở thành các cụm nghiên cứu năng động.
Cùng với đó, hiện tượng "chảy máu chất xám" tiếp tục diễn ra, khi nhiều sinh viên tốt nghiệp giỏi nhất tìm cách học tiến sĩ và sau đó ở lại nước ngoài.
Những khoảng cách nhân tài lớn đến từ bốn rào cản mang tính hệ thống, bao gồm vòng lặp giáo dục sau đại học và phát triển đội ngũ giảng viên còn yếu; tình trạng đầu tư cho giáo dục đại học và R&D không đầy đủ và kéo dài.
Không chỉ vậy, liên kết giữa cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp còn yếu; và khoảng cách cơ sở hạ tầng nghiên cứu và đổi mới sáng tạo.
Nhóm nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới đề xuất, để kích hoạt vòng xoay đổi mới sáng tạo – nhân tài công nghệ, Việt Nam cần nhanh chóng mở rộng nguồn cung nhân tài (tăng cả quy mô lực lượng lao động kỹ năng cao hiện tại và nguồn sinh viên mới tốt nghiệp) và tăng cường chiều sâu năng lực của họ để nâng tầm trình độ kỹ năng và chuyên môn.
Một số giải pháp bao gồm học bổng sau đại học cho lĩnh vực công nghệ cao, chương trình thu hút và giữ chân nhân tài công nghệ toàn cầu với các cơ chế ưu đãi đặc biệt, hiện đại hóa chương trình đào tạo đại học – thông qua phối hợp với doanh nghiệp.
Việt Nam cũng nên đầu tư cơ sở hạ tầng dùng chung, mở quyền truy cập nhằm tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục đại học và các doanh nghiệp khởi nghiệp được sử dụng cơ sở vật chất phòng thí nghiệm quốc gia, thay vì phải tự xây dựng riêng.
Bên cạnh đó, thúc đẩy liên kết cơ sở giáo dục đại học – doanh nghiệp – Chính phủ và tác động lan tỏa của FDI thông qua các cụm công nghệ trên cùng địa bàn, lưu chuyển nhân tài giữa doanh nghiệp và tổ chức học thuật.
Phương Anh