Làm thế nào để Việt Nam tránh được 'bẫy thu nhập trung bình'?

Làm thế nào để Việt Nam tránh được 'bẫy thu nhập trung bình'?
6 giờ trướcBài gốc
Trong bài phân tích mới nhất, TS. Phan Hoàng Điệp, nghiên cứu viên về phát triển thông minh và bền vững từ Đại học RMIT đã chia sẻ quan điểm của ông về cách làm thế nào để Việt Nam có thể tránh rơi vào bẫy thu nhập trung bình thông qua các bài học rút ra từ các quốc gia khác, cũng như từ chính thực tiễn phát triển của đất nước.
Nhiều bài học nhãn tiền từ lịch sử thế giới
Tiến sĩ Phan Hoàng Điệp cho rằng tốc độ tăng trưởng nhanh hiện nay cần được tiếp nối bằng những cải cách cơ cấu mạnh mẽ để Việt Nam tránh rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
TS. Phan Hoàng Điệp phân tích, Việt Nam đang ở thời điểm quan trọng trên hành trình phát triển của mình. Đất nước ghi nhận tăng trưởng kinh tế ổn định, xuất khẩu vững mạnh và sở hữu tỷ lệ thương mại so với GDP thuộc hàng cao nhất thế giới. Việt Nam cũng đang đẩy mạnh hội nhập toàn cầu, tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng sản xuất tiên tiến, đồng thời thể hiện tham vọng làm chủ các công nghệ mũi nhọn như 5G, trí tuệ nhân tạo, năng lượng tái tạo và chất bán dẫn.
Tuy nhiên, song hành cùng những cơ hội ấy là loạt thách thức không thể xem nhẹ: hạ tầng kỹ thuật lạc hậu, thiếu nhân lực công nghệ cao, dân số già hóa nhanh và những xáo trộn ngày càng phức tạp trong trật tự thương mại toàn cầu.
“Trong bối cảnh này, một câu hỏi lớn được đặt ra thường xuyên hơn – liệu Việt Nam có đang tiến gần đến bẫy thu nhập trung bình”, ông Điệp đặt vấn đề.
Ông Điệp ước tính dựa trên dữ liệu của WB, Malaysia từng có tốc độ tăng trưởng GDP trung bình lên tới 7,4%/năm trong giai đoạn 1961 - 1996, nhưng sau đó giảm xuống chỉ còn 4,4%. Thái Lan, từ mức trung bình 7,5% (1960 - 1996), giảm còn khoảng 5% (1999 - 2005), rồi còn chỉ 2% (2021 - 2023). Brazil, từng tăng trưởng mạnh mẽ từ 1965 - 1980, lại gần như không ghi nhận bất kỳ cải thiện nào về thu nhập bình quân đầu người trong suốt ba thập kỷ tiếp theo, phần lớn do không thể chuyển mình lên chuỗi giá trị cao và thiếu đầu tư cho đổi mới sáng tạo.
“Những quốc gia này không ngừng phát triển nhưng đã thất bại trong việc chuyển hóa mô hình tăng trưởng. Các mô hình kinh tế dựa vào lao động giá rẻ, khai thác tài nguyên hoặc sản xuất gia công giá thấp sớm muộn cũng sẽ mất đà khi chi phí tăng lên. Nếu không đầu tư đủ mạnh vào đổi mới và các ngành công nghiệp tri thức, tăng trưởng sẽ chậm lại. Việc không thể tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có giá trị cao hơn sẽ trở thành rào cản cho sự phát triển”, chuyên gia chỉ ra.
Theo TS. Phan Hoàng Điệp, rơi vào bẫy thu nhập trung bình hiếm khi là hệ quả của một cú sốc bất ngờ mà thường là kết quả của những giới hạn mang tính cấu trúc trong mô hình phát triển của một quốc gia. Ở giai đoạn đầu tăng trưởng, việc đầu tư vào nguồn vốn vật chất, như nhà máy, hạ tầng hay khai thác tài nguyên, có thể mang lại kết quả nhanh chóng. Nhưng khi hiệu quả của những nguồn lực này bắt đầu giảm dần, các bước đột phá tiếp theo chỉ có thể đến từ tri thức, công nghệ và cải cách thể chế.
Các dấu hiệu cảnh báo với Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện. Năm 2021, chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển (R&D) của Việt Nam chỉ đạt 0,42% GDP - thấp hơn rất nhiều so với Hàn Quốc (4,91%), Hoa Kỳ (3,48%) hay Nhật Bản (3,28%), và cũng thấp hơn so với các nước trong khu vực như Singapore (2,16% năm 2020) hay Thái Lan (1,33% năm 2020). Ngay cả so với nhóm các quốc gia thu nhập trung bình thấp (0,55% vào năm 2019), Việt Nam vẫn tụt lại phía sau.
Cùng lúc đó, theo tính toán của TS Điệp từ dữ liệu của WB, GDP bình quân đầu người của Việt Nam gần như không cải thiện gì so với các nước có nền kinh tế tiên tiến. Tính đến năm 2023, con số này chỉ bằng 11% của Hàn Quốc, 10% của Nhật Bản và 6% của Singapore - gần như không thay đổi so với đầu thập niên 1990. Đáng lo ngại hơn, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam từng bằng 76% của Trung Quốc vào năm 1989 lại chỉ còn 31% vào năm 2023. Dù có vượt lên so với một số nước trong khu vực như Ấn Độ, Indonesia hay Philippines, tốc độ cải thiện của Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn.
Một trở ngại lớn khác, theo chuyên gia, là chất lượng nguồn nhân lực. Tuy mức độ tiếp cận giáo dục đã tăng lên đáng kể nhưng kỹ năng thực tế lại chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế số. Tình trạng lãng phí nhân tài đang diễn ra khi nhiều người có năng lực chọn con đường ổn định trong khu vực công thay vì dấn thân vào nghiên cứu khoa học hay khởi nghiệp công nghệ vì thiếu động lực và sự hỗ trợ.
Trong khi đó, hạ tầng số còn yếu, vốn cho đổi mới sáng tạo khó tiếp cận và bất bình đẳng thu nhập ngày một gia tăng, nguy cơ Việt Nam rơi vào quỹ đạo trì trệ là hoàn toàn có cơ sở.
Con đường duy nhất là chuyển đổi chiến lược
Để bứt phá, theo ông Điệp, cần ưu tiên chiến lược dài hạn dựa trên những trụ cột mang tính chuyển đổi, đặc biệt là chuyên môn hóa công nghệ có mục tiêu.
Trong bối cảnh nguồn lực còn hạn chế, Việt Nam phải tập trung vào 1- 2 lĩnh vực công nghệ chiến lược có tiềm năng cạnh tranh toàn cầu. Những quốc gia như Hàn Quốc (bán dẫn), Nhật Bản (ô tô) hay Trung Quốc (xe điện) đều bắt đầu quá trình phát triển bằng cách chuyên môn hóa vào 1- 2 lĩnh vực công nghệ cao phù hợp với lợi thế so sánh của họ.
Cách tiếp cận này hoàn toàn phù hợp với học thuyết Lợi thế so sánh của David Ricardo - lý thuyết nền tảng trong kinh tế học hiện đại, vốn cho rằng các quốc gia nên chuyên sâu vào những lĩnh vực mà họ có hiệu suất tương đối cao. Với Việt Nam, việc xác định và mở rộng những thế mạnh chiến lược sẽ mở ra dư địa lớn về năng suất, thương mại và tăng trưởng bền vững trong dài hạn.
Tuy nhiên, chuyên gia lưu ý, công nghệ là chưa đủ. Việt Nam cũng cần tận dụng khôn ngoan các lợi thế địa lý và tài nguyên thiên nhiên.
Nằm trên một trong những tuyến hàng hải sầm uất nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam hoàn toàn có khả năng trở thành trung tâm thương mại đường biển của khu vực nếu đầu tư đúng mức vào cảng nước sâu như Vân Phong và nâng cấp hạ tầng logistics.
Tiến sĩ Điệp dẫn chứng, Singapore dù có diện tích nhỏ, đã làm giàu và tạo ảnh hưởng toàn cầu nhờ vai trò trung tâm hàng hải, với năng suất vận chuyển đạt hơn 41,12 triệu TEU (đơn vị đo sức chứa chuẩn của container) vào năm 2024, đóng góp khoảng 7% GDP cho nước này. Trong khi đó, Việt Nam sở hữu đường bờ biển dài tới 3.260 km, tiếp giáp trực tiếp các tuyến giao thương quốc tế. Nếu đầu tư tập trung vào các cảng như Vân Phong và điều phối logistics tốt hơn, thương mại hàng hải có thể trở thành động lực chủ chốt cho quá trình chuyển mình và nâng tầm năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam.
Những ngành ít phổ biến như dược liệu cũng có thể là tài sản chiến lược dài hạn. Việt Nam hiện nhập khẩu hơn 90% nguyên liệu dược phẩm dù khu vực Tây Nguyên và Tây Bắc có điều kiện tự nhiên lý tưởng để phát triển các loại cây dược liệu giá trị cao có tiềm năng xuất khẩu mạnh mẽ.
Điều quan trọng là chuyển đổi sẽ không xảy ra nếu không tính toán lại hệ thống giáo dục đại học và đổi mới sáng tạo một cách căn cơ. Việt Nam phải vượt khỏi tư duy tuyển sinh đại trà để ưu tiên phát triển các trường đại học có năng lực nghiên cứu vượt trội, kết nối nghiên cứu học thuật với doanh nghiệp, đồng thời tạo điều kiện cho các nhà khoa học và doanh nhân trẻ phát triển.
“Hệ sinh thái đổi mới hiệu quả không chỉ cần các sáng kiến từ khu vực tư, mà còn cần phản hồi từ phía nhà nước. Quỹ đầu tư mạo hiểm quốc gia, cơ chế bảo hộ sáng chế nhanh hơn và thị trường vốn dễ tiếp cận với các công ty khởi nghiệp công nghệ, đều là những điều thiết yếu để biến tầm nhìn thành hiện thực.”, ông Điệp nhấn mạnh.
Đỗ Kiều
Nguồn Vnbusiness : https://vnbusiness.vn//viet-nam/lam-the-nao-de-viet-nam-tranh-duoc-bay-thu-nhap-trung-binh-1107837.html