Theo báo cáo về Di cư nội địa Việt Nam giai đoạn 2009-2024 do Cục Thống kê (Bộ Tài chính) công bố cho thấy, quy mô số người di cư nội địa có xu hướng giảm trong những năm gần đây.
Cụ thể, giai đoạn 2009-2014 tổng số người di cư nội địa ở Việt Nam là 5,9 triệu người; Giai đoạn 2014-2019 được coi là giai đoạn bùng nổ với quy mô số người di cư đạt ngưỡng đỉnh là 6,4 triệu người. Tuy nhiên đến giai đoạn 5 năm trở lại đây, từ 2019-2024 tổng số người di cư giảm chỉ còn 3,8 triệu người.
Theo cơ quan thống kê, sự sụt giảm này cho thấy sự cạnh tranh ngày càng gay gắt về việc làm và điều kiện sống. Một số tỉnh trước đây là nơi cung cấp nguồn lao động di cư cho các vùng kinh tế trọng điểm đang nỗ lực đầu tư phát triển hạ tầng, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước để giữ chân người lao động địa phương.
Trong khi đó các vùng kinh tế trọng điểm nơi trước đây thu hút lao động thì có xu hướng lựa chọn phát triển các dự án công nghệ cao, sử dụng ít lao động hơn.
Số liệu về di cư theo từng giai đoạn (Ảnh: GSO).
Báo cáo chỉ rõ, người di cư tại Việt Nam đã có sự thay đổi đáng kể về khoảng cách di chuyển, phản ánh sự chuyển dịch trong hành vi và nhu cầu của người dân.
Giai đoạn 2019-2024 cho thấy quy mô đã giảm mạnh ở tất cả các dòng di cư. Xét về cơ cấu, di cư ra khỏi tỉnh luôn chiếm tỉ trọng cao nhất nhưng có xu hướng giảm từ 44,5% giai đoạn 2009-2014 xuống còn 42,3% giai đoạn 2019-2024; trong khi đó di cư trong nội huyện có xu hướng ngược lại, tăng tỉ trọng từ 26,3% (giai đoạn 2009-2014) lên 38,4% (giai đoạn 2019-2024).
"Điều này phản ánh xu hướng di chuyển ngắn để tìm kiếm cơ hội việc làm hoặc thay đổi nơi cư trú trong phạm vi quen thuộc, ổn định hóa nơi cư trú và giảm chi phí di chuyển", báo cáo nêu.
Giai đoạn 2019-2024 có những thay đổi rõ nét cả về quy mô lẫn hướng dịch chuyển. Với những khu vực kinh tế trọng điểm như Tp.HCM, Bình Dương và Đồng Nai, Đông Nam Bộ vẫn là điểm đến lớn nhất, vùng hút dân cư từ các vùng khác, đặc biệt là nhập cư lớn nhất từ Đồng bằng sông Cửu Long với 293.000 người và nhập cư từ Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung với gần 137.000 người.
Nhập cư liên vùng vào Đông Nam Bộ tăng mạnh lên đỉnh điểm với hơn 1,3 triệu người vào giai đoạn 2014-2019, nhưng sau đó giảm xuống 531.000 người vào giai đoạn 2019-2024.
Đồng bằng sông Hồng duy trì vai trò vừa là vùng xuất cư vừa là vùng nhập cư, với quy mô nhập cư nhỉnh hơn so với quy mô xuất cư.
Đồng bằng sông Hồng có luồng hút dân chủ yếu đến từ Trung du và miền núi phía Bắc (khoảng 51-62% qua các giai đoạn), với quy mô luồng di cư này tăng từ 110.000 người giai đoạn 2009-2014 lên 209.000 giai đoạn 2014-2019, sau đó giảm xuống 137.000 giai đoạn 2019-2024.
Luồng hút dân tới Đồng bằng sông Hồng lớn thứ 2 là từ Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung (khoảng 30% luồng nhập cư vào Đồng bằng sông Hồng).
Đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục là vùng xuất cư liên vùng lớn nhất, chủ yếu hướng về Đông Nam Bộ (97%). Tuy nhiên, luồng di cư từ Đồng bằng sông Cửu Long đến Đông Nam Bộ đã giảm hơn một nửa so với giai đoạn 2014-2019, phản ánh sự thay đổi trong hành vi di cư của người dân.
Phân bố quy mô người và xuất cư từ thành thị và nông thôn (Ảnh: GSO).
Trong số các luồng di cư bao gồm: nông thôn - thành thị; nông thôn - nông thôn; thành thị - thành thị; thành thị - nông thôn. Luồng di cư thành thị - thành thị vẫn là luồng có tỉ trọng lớn nhất (dao động trên 70%), tức là trong tổng số người xuất cư từ khu vực thành thị thì trên 70% trong số họ lựa chọn các khu vực thành thị khác sinh sống. Luồng di cư nông thôn-thành thị có tỉ trọng thứ 2, khoảng trên 51%.
Di cư tại Việt Nam chủ yếu tập trung ở nhóm tuổi lao động trẻ. Giai đoạn 2009-2014, trong tổng số 5,9 triệu người di cư, nhóm tuổi 20-24 chiếm quy mô đông nhất với gần 1,5 triệu người, tiếp theo là nhóm 25-29 tuổi với 1,3 triệu người. Đây là độ tuổi có nhu cầu cao về học tập, việc làm và khởi nghiệp, phản ánh động lực kinh tế là yếu tố chính thúc đẩy di cư.
Tổng số người di cư giảm xuống còn khoảng 3,8 triệu người, giai đoạn 2019-2024, trong đó nhóm tuổi 20-24 chỉ còn 0,8 triệu người (giảm gần một nửa so với giai đoạn 2009-2014), nhóm 25-29 còn 0,7 triệu.
"Sự suy giảm này có thể phản ánh quá trình đô thị hóa chậm lại, cơ hội việc làm phân bố đều hơn giữa các vùng, hoặc chính sách phát triển kinh tế-xã hội tại địa phương phát huy hiệu quả trong việc thu hút giữ dân cư", Cục Thống kê cho hay.
Di cư theo tình trạng việc làm và giới năm 2024 (Ảnh: GSO).
Dữ liệu 2024 cho thấy lao động di cư có tỉ lệ có việc làm cao hơn người không di cư, đặc biệt ở nam giới. Tỉ lệ người có việc làm trong nhóm người di cư đạt 69,1%, cao hơn so với người không di cư là 67,4%.
Điều này cho thấy người di cư là lực lượng lao động chủ động, thường di chuyển để tìm kiếm việc làm, đặc biệt là nam giới.
Người di cư chủ yếu làm việc trong ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ: 46,4% làm việc trong ngành công nghiệp và xây dựng, 49,1% trong ngành dịch vụ, chỉ 4,5% làm việc trong nông, lâm nghiệp và thủy sản. Cơ cấu này cho thấy người di cư chủ yếu tham gia vào các ngành sản xuất và dịch vụ tại đô thị, nơi có nhu cầu lao động cao, đặc biệt là lao động phổ thông và bán kỹ năng.
Nguyễn Thu Huyền