Di tích văn hóa lịch sử đình - chùa làng Bùi, điểm tựa văn hóa tinh thần với người dân xã Quảng Giao trước đây, nay là phường Nam Sầm Sơn.
Theo khảo sát của Nhà nghiên cứu Đào Thị Châu thì làng Bùi có từ thời nhà Lý, “thuở ấy vùng này còn hoang sơ, nhưng lộ vẻ sầm uất thanh bình mát mẻ”. Truyện kể rằng có vị hòa thượng kinh lý qua vùng đất này, không hiểu vì lý do gì mà dùng dằng không đi được nên đã dừng chân nghỉ lại. Sáng sớm, ngài nhìn về phía đông, bỗng gặp hào quang chiếu sáng. Ngài nhận thấy điềm lành sẽ tới. Theo làn khói mờ, vị hòa thượng đến nhà một người dân tên Phi. Quá vui mừng, chủ nhà mạo muội nói: Xin ngài đặt cho mảnh đất của chúng tôi một cái tên để đời đời ghi nhớ buổi hội ngộ này.
Nhìn thấy mảnh đất có 5 con nước chảy lượn, hòa thượng chỉ về phía trước mà nói: Đây là vùng đất “Hội thủy triều lai/ ngũ long quần tụ”. Rồi ông thấy phía Tây có một miếng đất mang hình cái bút, phía Đông có cái giếng tựa hình cái nghiên, miếng đất phía Nam nổi cao, vuông vức bằng phẳng là tạc hình cuốn sách. "Tiền duyên hậu phúc đất này chắc chắn sẽ đông dân, lập nghiệp sẽ vô cùng quý giá. Địa linh sinh nhân kiệt, xin mượn quý danh của hai ông là người đầu tiên lập nghiệp ở đây để đặt địa danh. Chữ Phi cộng chữ Y là chữ “Bùi”.
Ngoài yếu tố truyền thuyết tâm linh ấy, người làng Bùi còn truyền nhau rằng ở đây có vị tướng được triều đình bổ về án binh để đề phòng bọn giặc tràn tới. Thấy thế đất đẹp, vị tướng đặt tên là Bặc, dần về sau người dân đọc chệch đi là Bùi. Khi vị tướng chết, người dân đã dựng đền thờ và tôn ông làm Thành hoàng làng.
Có lịch sử ra đời từ thời nhà Lý, nhưng phải đến đời nhà Trần, với nhiều biện pháp tích cực nhằm khắc phục tình trạng kinh tế đình đốn, chế độ chính trị khủng hoảng, trong đó đặc biệt coi trọng khuyến khích người dân khẩn hoang, mở rộng diện tích phát triển sản xuất, đắp đê lấn biển... làng Bùi thuộc tổng Thủ Hộ, Hương Yên Duyên mới có nhiều người đến quần cư, sinh sống.
Ông Lý Trần Tuấn, nguyên Bí thư Đảng ủy xã Quảng Giao cho rằng: Trước khi thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp, làng Bùi nằm trên đất Quảng Giao, nay là phường Nam Sầm Sơn. Ở làng Bùi có rất nhiều giai thoại, vừa ly kỳ vừa uyên bác; vừa hài hước vừa tế nhị. Đặc biệt là sự kiện nào cũng được người dân làm thơ dễ đọc dễ nhớ.
Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 2 (1285), Thanh Hóa nằm ở trong tình thế hai đầu đều có giặc. Phía Bắc giặc từ biên giới tràn sang, phía Nam giặc từ Chiêm Thành quay ra thế gọng kìm. Truyền thống yêu nước của người dân làng Bùi đã được hình thành từ đó và còn được phát huy hơn trong các thời kỳ chống giặc Minh của Bình định vương Lê Lợi; chống quân Mãn Thanh do Quang Trung – Nguyễn Huệ đứng đầu. Không chỉ gia nhập nghĩa quân, người dân làng Bùi còn cung cấp lương thảo cho binh lính. Truyền thống ấy tiếp tục được nối dài qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ...
Bên cạnh truyền thống yêu nước, người dân làng Bùi nức tiếng ở tinh thần hiếu học, làm quan văn, quan võ ở nhiều triều đại. Thêm nữa, người dân rất trân trọng giá trị văn hóa làng mà trung tâm là đình Trung và chùa Hưng Thống (tên nôm là chùa Bùi).
Theo văn bia “Trùng tu Thống tự” cho biết chùa được xây dựng từ thế kỷ XIII và tu sửa vào năm 1706, đời vua Lê Dụ Tông. Tọa lạc ngay trước chùa Hưng Thống là đình Trung được xây dựng năm 1763. Sau lần đại tu năm 1848, đến nay đình vẫn giữ nguyên kiến trúc là nơi thờ 3 vị thành hoàng làng, ngoài ra còn thờ 2 vị quan là Quốc lộc hầu Nguyễn Đồng Tụy và Xương Trung hầu Nguyễn Xuân Mậu.
Qua thời gian, từ thời chiến tranh, rồi cách mạng văn hóa, tiêu thổ kháng chiến, chống mê tín dị đoan nhưng đình vẫn lặng lẽ nằm trên đất làng, khi thì là trường học, lúc lại trở thành kho chứa vũ khí, trạm xá, bệnh viện...
Về thăm đình - chùa làng Bùi, chúng tôi được ông Lý Trần Tuấn giới thiệu kỹ về những tấm văn bia còn lưu giữ tại đây. Ông khẳng định: Chúng tôi tự hào vì trên đất làng Bùi có cả chùa - đình. Bởi rất ít địa phương có được mô hình này cùng tồn tại trong một không gian linh thiêng. Ông còn cho biết thêm: Kể từ thời vua Minh Mạng, Huyện đường Quảng Xương dời về làng Bùi xã Chàng Xá, vì thế làng Bùi trở thành phố huyện Bùi. Gọi là phố huyện một phần do hoàn cảnh sinh sống, phong cảnh xóm làng có khác với các làng. Quan trọng hơn đây là “đầu não” của huyện, là nơi các vị hào lý của hàng tổng, hàng xã... hằng ngày, hằng tháng lui tới trình quan huyện về mọi công việc của địa phương mình. Vì là phố huyện nên năm 1919, thực dân Pháp đã cho xây dựng Trường Tiểu học Pháp - Việt. Đây là trường đầu tiên của huyện Quảng Xương cũ nên còn được gọi là trường huyện.
Tại di tích, hiện có 5 tấm văn bia, trong đó có văn bia “Trùng tu Thống tự” ghi lại thời điểm chùa Bùi được xây dựng và tu sửa.
Nhắc đến làng Bùi không thể không nhắc tới chợ Bùi. Là trung tâm giao dịch thương mại đông đúc nhất vùng, thương nhân khắp nơi cùng với hàng trăm mặt hàng lớn nhỏ đổ về chợ Bùi, và từ đây chợ Bùi nhiều mặt hàng của địa phương cũng được mang đi bán khắp nơi. Chợ Bùi không chỉ nổi tiếng ở xứ Thanh mà tiếng còn vang đến các tỉnh lân cận như Nghệ An, Nam Định (cũ) “Chợ Bùi một tháng chín phiên...”.
Đặc biệt, người dân trong làng đến bây giờ vẫn chưa quên được sự kiện kinh hoàng đau thương tang tóc tại chợ Bùi vào ngày 20/11 âm lịch năm 1949, thực dân Pháp ném bom vào chợ cướp đi sinh mệnh của 82 người và làm bị thương hàng trăm người, nhiều tài sản hàng hóa hư hại nặng.
Những mất mát thương đau dần lắng lại, người dân làng Bùi vươn lên làm kinh tế. Tính đến hết tháng 7/2025, thu nhập trung bình của người dân đạt trên 70 triệu đồng/năm. “Sự nỗ lực đó ai cũng tự hào, nhưng chúng tôi thật sự vui vì đã giữ gìn được đình – chùa cũng những giá trị văn hóa phi vật thể ẩn tàng trong di tích. Không còn được chứng kiến lễ tế đảo vũ cầu mưa thuận, gió hòa, nhưng người dân làng Bùi, hằng năm ngay sau thời khắc giao thừa cũng đều được nghe hồi trống, tiếng chuông vang ngân. Và vào ngày 27 tháng Giêng, con cháu gần xa nô nức về hội làng: “Làng Bùi mở chợ quan kinh đứng đầu/ Bần đinh cho chí nhà giàu/ Quan sang chức sắc ngõ hầu nhất tâm”.
Thanh âm của làng vẫn còn đó, dù có những tác động và đổi thay cùng thời gian, thì nét văn hóa làng vẫn là linh hồn và sự khác biệt với các vùng quê khác.
Bài viết có sử dụng tư liệu của Nhà nghiên cứu Đào Thị Châu trong sách “Làng cổ truyền Thanh Hóa” (Hội Khoa học lịch sử Thanh Hóa - NXB Thanh Hóa, 2024).
Bài và ảnh: Kiều Huyền