Làng người Mông giữa lòng xứ Đoài

Làng người Mông giữa lòng xứ Đoài
2 giờ trướcBài gốc
Du khách tham quan, Check-in bên mô hình khèn Mông tại Làng người Mông ở Đồng Mô.
Văn hóa từ những nếp nhà
Làng người Mông tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam được xây dựng từ năm 2010, với diện tích khoảng 0,5 ha, nằm gọn trên một triền đồi nhưng đủ để gom lại những nét tiêu biểu nhất về kiến trúc của người Mông ở vùng cực Bắc. Cụm công trình có tổng diện tích xây dựng 270 m², gồm một nhà đất mái hình mai rùa, một nhà đất mái ngói, một nhà đất mái gỗ và một chuồng gia súc. Các nếp nhà không chỉ được phục dựng công phu, mà còn có người ở, có bếp lửa hồng, có tiếng nói, tiếng cười, để văn hóa người Mông ấm cúng, sống động như ở nơi non cao.
Ngôi nhà đất mái hình mai rùa, kiểu nhà đặc trưng của người Mông vùng cao, nằm nép mình trên lưng đồi. Mái lợp bằng cỏ tranh, hình cong như mai rùa ấy bao tháng năm vẫn giữ cho Làng người Mông hơi ấm vào mùa đông và mát vào mùa hạ. Nhà được làm bằng gỗ và đất nện, ít ngăn chia bên trong, tạo không gian quây quần ấm cúng. Từ khung cửa, vách tường đến chiếc then gỗ, tất cả đều mang dấu vết đôi tay cần mẫn. Tre, nứa, gỗ, đá, dây mây… tưởng chừng mộc mạc mà qua bàn tay người thợ Mông bỗng thành nếp nhà vững chãi.
Chị Giàng Thị Má (trái) và chị Má Thị Liên bên gian hàng giới thiệu sản phẩm thổ cẩm của người Mông.
Một nếp nhà khác lại gây ấn tượng bởi ngôi nhà đất mái ngói âm dương, những hàng ngói xếp đều tăm tắp ôm lấy thân nhà như những lớp sóng nối nhau. Ngói âm dương giúp thoáng khí, chống thấm tốt, hợp với miền núi mưa nhiều; tường đất nện dày giữ ấm mùa đông, mát dịu mùa hè. Đó là kiểu nhà cho thấy sự dung hòa giữa truyền thống và sự tiện dụng, giữa cái bền bỉ của đất đá với nhịp sống ngày một đổi thay.
Những mái ngói âm dương trầm màu theo thời gian, những bức vách đất nện mát lạnh, tiếng chuyện trò rì rầm bên bếp lửa và mùi khói bếp quyện trong gió… tất cả hòa lại thành một bức tranh sống động. Ở đó, mỗi âm thanh hay mùi hương đều mang theo một câu chuyện riêng. Chính những điều bình dị ấy tạo nên linh hồn của làng người Mông ở Đồng Mô, nơi du khách không chỉ nhìn thấy mà còn được chạm, được nghe và được sống cùng không khí vùng cao ngay giữa lòng xứ Đoài.
Viết tiếp câu chuyện núi rừng
Hiện nay, làng người Mông ở Đồng Mô có 8 nhân khẩu, chủ yếu đến từ các xã vùng cao như Đồng Văn, Quản Bạ, Vị Xuyên. Không gian văn hóa Mông từ tiếng nói, trang phục, tập tục đến nếp sinh hoạt của người Mông, được mỗi người ý thức giữ gìn như báu vật quê hương.
Chị Má hướng dẫn quấn khăn đội đầu của người Mông cho khách du lịch.
Bên hiên nhà, chị Giàng Thị Má, người Mông trắng quê Đồng Văn cần mẫn ngồi thêu tấm thổ cẩm, như gửi cả nỗi nhớ đá tai mèo, gió núi và những phiên chợ xưa nơi cao nguyên Đồng Văn vào từng đường kim mũi chỉ.
Những đường chỉ chạy trên nền vải không chỉ là họa tiết trang trí, mà còn là câu chuyện về núi, về mây, về mùa nương rẫy. Mỗi tấm váy, mỗi chiếc áo chị Má làm ra là một mảnh ký ức của Cao nguyên đá được gửi lại nơi đây, để ai đi qua cũng thấy thấp thoáng bóng dáng một làng người Mông xa mà gần.
Chị bảo, thổ cẩm, rượu ngô, ngôi nhà… là hồn cốt văn hóa mà mỗi người Mông đều có ý thức gìn giữ và lưu truyền. Bởi thế, ngày nào chị cũng đều tay ủ những mẻ rượu ngô men lá, để lúc nào cũng sẵn chum rượu thơm nồng mời khách. Khi vắng khách, chị quét dọn sân nhà, chỉnh lại những bộ váy áo truyền thống của người Mông treo trên vách gỗ.
Tôi hỏi: Xa quê lâu chị có nhớ cao nguyên không? Chị cười hiền: “Nhớ chứ. Nhưng mỗi lần có khách ghé hỏi chuyện, mình kể cho họ nghe về phong tục, về Đồng Văn, tự nhiên thấy như đang được trở về nhà. Nỗi nhớ miền đá xám cũng dịu đi nhiều lắm”.
Chị Giàng Thị Má chỉnh lại những bộ trang phục truyền thống của người Mông.
Ngoài sân đất, tiếng khèn của ông Sùng Chúa Dình vang lên, trầm bổng như hơi thở núi rừng. “Ngày rời Vị Xuyên, tôi chẳng mang được bao nhiêu thứ. Nhưng khèn thì nhất định phải mang. Không có khèn, buồn lắm… như không có tiếng nói của mình vậy”, ông nói, mắt nhìn về phía xa. Với người Mông, khèn không chỉ để múa, để hát mà còn là linh khí của cộng đồng. Khèn theo trai Mông từ tuổi 13 đến 15, theo suốt những mùa hội, mùa làm nương, thậm chí theo cả cuộc chia ly cuối cùng trong tang lễ.
Những dịp có khách, bà con trong làng kể cho du khách nghe chuyện chợ phiên, mùa hoa tam giác mạch trắng sườn đồi, những cái Tết Mông tràn khói bếp và tiếng cười. Họ hướng dẫn du khách thổi khèn, đội khăn, giã bánh, nặn ngô. Còn vào các ngày lễ lớn, làng dựng lại lễ hội Gầu Tào cùng nhiều trò chơi dân gian, để du khách không chỉ xem mà còn được hòa mình vào tinh thần hội hè của người Mông.
Nhờ những con người mộc mạc mà giàu tình yêu văn hóa ấy, làng người Mông ở Đồng Mô không chỉ là mô hình trưng bày tĩnh tại, mà đã trở thành một làng người Mông sống động giữa lòng xứ Đoài. Nơi đó, ngọn lửa văn hóa dân tộc Mông vẫn âm ỉ cháy, lan tỏa ấm áp và kiêu hãnh như chính cao nguyên hùng vĩ.
Cảnh Trực
Nguồn Tuyên Quang : http://baotuyenquang.com.vn/van-hoa/du-lich/202512/lang-nguoi-mong-giua-long-xu-doai-532476c/