Lặng thầm tình cha

Lặng thầm tình cha
5 giờ trướcBài gốc
Cấy lúa vào buổi sớm mai tránh nắng tháng Sáu. Ảnh minh họa: Bình Thanh.
Vậy nên, thật quý khi được đọc bài thơ “Hỏi” của tác giả Nguyễn Bằng Việt để cùng thấu cảm và rung động trước những hy sinh lặng thầm vì tương lai con trẻ của người cha nơi đồng chiêm trũng.
Cách “nhận diện” thú vị
Hỏi
Nguyễn Bằng Việt
Một đời chỉ bán không mua
Hết chiêm rồi lại qua mùa
Cha tôi
Mặn mòi những giọt mồ hôi
Giọt pha lên tóc
Giọt trôi ruộng làng
Chân không cha bước vội vàng
Những trưa tháng Sáu chang chang sá bừa…
Những ngày tháng Bảy nhiều mưa
Đồng làng ngập úng lúa chưa vào đòng
Cha lại đắp ruộng be vùng
Lại khom lưng phía chân sòng đồng xa…
Quả cà mặn chát tháng Ba
Cõng lưng cơm độn lần qua giáp mùa
Một đời chỉ bán không mua
Bạn hàng là xứ đồng chua thầm thì…
Hỏi cha đã bán những gì
Cho con sải những bước đi bằng người!
Thật ấn tượng khi nhan đề của bài thơ chỉ gói gọn trong một từ: “Hỏi”, thế nhưng vẫn đủ sức khơi gợi cho người đọc biết bao điều: Ai hỏi? Hỏi về điều gì? Vì sao phải hỏi? Lời giải đáp cho hỏi ở đâu?...
Không chỉ thế, bài thơ được làm theo thể lục bát cũng rất ngắn gọn, gồm 18 câu. Có điều, chúng được bố cục thành 5 khổ chứ không phải 3 như thông thường (một khổ bốn câu), trong đó có những xáo trộn: Khổ đầu gồm 3 câu, khổ thứ 2 gồm 5 câu và khổ cuối 2 câu.
Trước hết, cùng tìm hiểu về sự đặc biệt trong cách tổ chức câu ở khổ thơ đầu:
“Một đời chỉ bán không mua
Hết chiêm rồi lại qua mùa
Cha tôi”
Được kết cấu theo đoạn quy nạp, tác giả giới thiệu đặc điểm “nhận diện” cho nhân vật trữ tình của bài thơ thật khác biệt đồng thời khơi gợi không ít tò mò. Đó là, lời khẳng định về người “một đời chỉ bán không mua” và hành trình này là một vòng tròn bền bỉ, với điểm đầu và điểm cuối xoay đều từ “chiêm” sang “mùa” - hai vụ chính của nhà nông.
Vậy chủ thể của công việc ấy là ai? Câu trả lời nằm ở câu thơ thứ hai và ba. Thực chất, chúng thuộc về một câu - câu bát nhưng được ngắt thành 2 câu độc lập, chỉ gồm 6 và 2 tiếng: “Hết chiêm rồi lại qua mùa/ Cha tôi”. Có thể thấy, sự ngắt nhịp xuống dòng này không hề gây trúc trắc về vần điệu, trái lại cả hai vẫn nằm trong một tổng thể - câu bát mà lại thêm nhấn mạnh để tạo sự chú ý cho người đọc đến nhân vật trữ tình - “Cha tôi”. Mạch cảm xúc cũng được bộc lộ với niềm xúc động dâng trào ở sự ngắt nhịp đầy chủ ý này.
Thấu cảm nhọc nhằn
Từ đây, người đọc không khỏi tò mò cùng câu hỏi: Vậy, cả đời người cha ấy “chỉ bán” chứ “không mua” cái gì? Ta cùng đọc tiếp khổ 2:
“Mặn mòi những giọt mồ hôi
Giọt pha lên tóc, giọt trôi ruộng làng
Chân không cha bước vội vàng
Những trưa tháng Sáu chang chang
sá bừa…”
Là vậy, thứ đầu tiên cha bán không đâu khác chính là “những giọt mồ hôi”, là sức chịu đựng vô biên giữa thời tiết khắc nghiệt, mặc bàn chân bỏng rát bước vội vàng để bày những sá bừa cho từng thửa ruộng giữa trưa hè tháng Sáu. Ở câu thơ “Mặn mòi những giọt mồ hôi”, tác giả sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ khi đảo tính từ “mặn mòi” lên trước cụm từ “những giọt mồ hôi”. Nhờ vậy, ta càng cảm rõ hơn vị mặn kết lại từ những tháng ngày lao động vất vả, nhọc nhằn của người cha.
Cùng với đó, tác giả còn sử dụng biện pháp tu từ nói quá để miêu tả mức độ mồ hôi tuôn chảy khi người cha bươn chải trên ruộng đồng: “Giọt pha lên tóc/ Giọt trôi ruộng làng”. Trong ca dao có câu rất hay tả về nỗi vất vả, cực nhọc của người nông dân khi cày đồng qua hình ảnh giọt mồ hôi: “Cày đồng đang buổi ban trưa/ Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày”.
Ở bài thơ này, giọt mồ hôi cũng được khắc họa đậm nét, mức độ tăng dần từ “pha lên tóc” đến “trôi ruộng làng”. Với “pha lên tóc” gợi lên hình dung về mái tóc sớm lấp lánh sợi bạc pha nắng mưa, gió sương còn hình ảnh “Giọt trôi ruộng làng” được miêu tả phóng đại và cũng ngắt từ câu bát thành câu độc lập chỉ có 4 tiếng, tiếp tục đem lại hiệu quả cảm xúc mạnh mẽ.
Hiển hiện ở đây là công việc ruộng đồng phải vất vả như thế nào đồng thời phải làm việc dưới thời tiết khắc nghiệt ra sao thì nhân vật trữ tình mới phải đổ bao công sức như vậy. Qua đó, người đọc thấy được người cha đã vắt kiệt sức mình trước cái nắng đổ lửa của tháng Sáu đồng thời thêm thấu cảm trước bao nhọc nhằn của bậc sinh thành những mong có đủ lúa gạo để lo cho con ấm bụng, lớn khôn.
Nhưng, sự khắc nghiệt ấy chưa dừng ở đó mà vẫn nối dài sang tháng Bảy:
“Những ngày tháng Bảy nhiều mưa
Đồng làng ngập úng lúa chưa vào đòng
Cha lại đắp ruộng be vùng
Lại khom lưng phía chân sòng
đồng xa…”
Thời tiết mùa Hè ở đất nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa là vậy. Sau cái nắng như đổ lửa của tháng Sáu sẽ là những ngày bão gió, mưa ròng trút xuống làm ruộng đồng mênh mông nước. Dưới cái nắng thiêu đốt, lúa vừa vươn cao nhưng chưa kịp vào đòng mà cứ ngâm sâu trong nước lâu ngày lại khiến người nông dân lo lắng mất mùa.
Bởi vậy, người cha lại phải tất bật “đắp ruộng be vùng” rồi “khom lưng phía chân sòng đồng xa”. Ở đây, tác giả khắc họa dáng vẻ lao động của người cha thật chân thực, sinh động qua hành động tát nước chống ngập úng cho lúa. Ông sớm hôm khom lưng be vùng rồi bền bỉ kéo từng gàu nước đổ ra ngòi, sông những mong cứu một vụ mới, cây lúa được tiếp tục xanh tươi, trổ đòng trong bình yên.
Công việc này không phải là ngày một ngày hai mà liên tục - được thể hiện qua từ “lại” điệp trong hai câu thơ. Phép điệp vừa tạo nhịp điệu, tạo sự kết nối, vừa nhấn mạnh tinh thần quyết không chịu phó mặc cho hoàn cảnh mà luôn cần cù chống chọi, khắc phục mọi khó khăn do thiên tai gây ra; quyết bảo vệ, cứu giữ mùa màng của người nông dân nói chung và người cha trong bài thơ nói riêng.
Sự trưởng thành của mỗi người con không thể thiếu công lao dưỡng dục của đấng sinh thành. Ảnh minh họa: Bình Thanh.
Thầm thì tiếng lòng
Và sau những lần dốc sức cho ruộng đồng ấy, bữa cơm thường ngày của người cha thế nào:
“Quả cà mặn chát tháng Ba
Cõng lưng cơm độn lần qua giáp mùa”
Đến khổ thứ ba, tác giả lật trở về những ngày giáp mùa tháng Ba ngày Tám đói kém thường xảy ra ở các vùng quê khoảng trước những năm 2000. Đó là những ngày lúa còn xanh trên đồng mà cót thóc trong buồng đã cạn. Bữa cơm của nhà nhà thường chỉ có cơm độn sắn, khoai cùng những quả cà muối mặn chát những mong lần hồi qua ngày. Đây cũng là tình cảnh mà người cha trong bài thơ phải trải qua. Dẫu vậy, ông vẫn:
“Một đời chỉ bán không mua
Bạn hàng là xứ đồng chua thầm thì…”.
Đến đây thì đã rành rọt những chuyện người cha ấy quanh năm ngày tháng bán gì và bán cho ai. Đó không phải là việc bán đi những thứ đơn giản như bó rau, cân gạo, mớ tôm, mớ cá… mà ông bền bỉ bán đi “gia tài” sức khỏe, cái cần cù lam làm được hiển hiện qua từng câu thơ vừa tả thực vừa gợi những chiều cảm xúc nghẹn lòng trước biết bao mặn mòi của dòng mồ hôi tuôn rơi đến… “trôi ruộng làng”, của dáng tảo tần nắng mưa “khom lưng phía chân sòng đồng xa”…
Và cũng từ đây, người “bạn hàng” của người cha được giới thiệu, không phải là những tay buôn chuyến tìm về hay ở các buổi chợ phiên mà là nơi rất gần gũi, mến thương: “xứ đồng chua thầm thì…”.
Thêm một lần nữa người đọc được thấy nỗi vất vả của người cha khi làm lụng mưu sinh, xây dựng tổ ấm trên vùng đồng chua quanh năm đất chai cằn, nước nhiễm phèn nổi váng, bám vàng cả bàn chân, móng tay chứ không phải bờ xôi ruộng mật.
Nhưng vùng đất ấy vẫn rất ân tình trong những tiếng thầm thì để những người con sinh ra từ đây như người cha và bao người khác nữa không ngừng bám đất, bám làng. Có thể nhọc nhằn chẳng vơi, mồ hôi thêm mặn mòi, bước chân thêm gấp vội, bỏng rát nhưng tình người gắn bó với đất với làng vẫn luôn bền chặt, thủy chung muôn đời.
Quay trở lại với điều thắc mắc ngay từ câu thơ đầu tiên: Vì sao suốt cả cuộc đời nhân vật trữ tình đã được mặc định: “chỉ bán không mua”?; thêm nữa, tên bài thơ là: “Hỏi”, vậy mà đọc suốt 4 khổ thơ sao chưa thấy câu hỏi nào?. Thì phải tới khổ cuối cùng, độc giả mới có lời giải đáp:
“Hỏi cha đã bán những gì
Cho con sải những bước đi
bằng người!”
Thì ra, tác giả “Hỏi” để mà tự trả lời, để mà tự cật vấn mình: Để ta lớn khôn, để ta phương trưởng, để ta bằng bè bằng bạn… thì quanh năm ngày tháng người cha nơi đồng chiêm trũng kia phải bán những gì? Tất cả những vất vả, nhọc nhằn được khắc họa đậm nét ở những câu thơ trên chính là những thứ đấng sinh thành đã bán.
Những dòng mồ hôi tuôn, bàn chân bỏng rát… thậm chí nếu cần thì có thể bán hết “gia tài” sức khỏe để cày sâu cuốc bẫm kiếm đồng tiền bát gạo lo cho con nên người, dựng xây sự nghiệp: “Cho con sải những bước đi bằng người”, ông luôn sẵn sàng. Còn chuyện mua gì cho mình là điều chẳng bao giờ người cha ấy bận lòng.
Thế nên, chuyện mua và bán ở đây không phải là những cân đong đo đếm như việc giao dịch một món hàng thường ngày mà nó mang tính biểu tượng về đức hy sinh của các bậc sinh thành sinh sống bằng nghề nông đối với con cái.
Nếu ở hình tượng người mẹ thường là những âu lo, săn sóc từng giấc ngủ, bữa ăn thì ở hình tượng người cha sẽ là những gánh vác của một trụ cột những mong nâng đỡ bàn chân con tự tin bước vào đời.
Ở bài thơ này, hình tượng người cha được khuôn vào những người nông dân vùng chiêm trũng khoảng trước thế kỷ 21. Đức hy sinh được thể hiện ở những công việc của nhà nông: Cấy cày, gieo trồng, chăm sóc cho mùa màng bội thu để là bệ đỡ cho sự trưởng thành của mỗi người con.
Ngẫm lại, bài thơ “Hỏi” thực chất là tiếng lòng thổn thức của người con khi nhìn lại chặng đường lớn lên và phương trưởng của mình không thể thiếu công lao dưỡng dục của đấng sinh thành - “Cha tôi”.
Đó cùng là lòng biết ơn về đức hy sinh và tình yêu lặng thầm của cha dành cho con. Tiếng lòng ấy được bộc lộ qua lời thơ giản dị, mộc mạc nhưng đầy sức gợi tả, gợi cảm, từ đó truyền đi thông điệp ý nghĩa: Hãy luôn tỏ lòng biết ơn và yêu thương cha mẹ khi còn có thể!
Thụy Trinh (Giáo viên Trường THCS Thụy Bình, Thái Thụy, Hưng Yên)
Nguồn GD&TĐ : https://giaoducthoidai.vn/lang-tham-tinh-cha-post744182.html