Tưởng chừng là "ý nguyện cuối đời" nhằm phân định rõ ràng tài sản, di chúc lại có thể trở thành "ngòi nổ" cho những tranh chấp gia đình phức tạp. Thực tế từ nhiều vụ án cho thấy ngay cả khi di chúc đã được công chứng, việc không tuân thủ chặt chẽ quy định pháp luật vẫn có thể khiến ý nguyện cuối cùng bất thành, đẩy người trong cuộc vào hành trình tố tụng gian nan.
Gian nan hành trình chứng minh di chúc
Một vụ việc đang thu hút sự quan tâm của dư luận là tranh chấp thừa kế giữa bà Nguyễn Bình Phương (vợ cố diễn viên, người mẫu Đức Tiến) và bà Nguyễn Ngọc Ánh (mẹ ruột cố diễn viên). Theo khởi kiện, bà Phương cho rằng chồng đã để lại căn nhà tại TP HCM và thửa đất ở Long An, còn mẹ và con gái mỗi người được hưởng hơn 666 triệu đồng. Tuy nhiên, bà Ánh phản tố rằng di chúc lập tại Mỹ không có giá trị pháp lý tại Việt Nam và căn nhà ở TP HCM là tài sản chung, bà có quyền hưởng một nửa giá trị.
TAND TP HCM dự kiến mở lại phiên xử vào ngày 28-10 tới, được cho là sẽ làm rõ nhiều vấn đề pháp lý liên quan đến tính hợp pháp của bản di chúc.
Thực tế cho thấy việc lập di chúc không chỉ cần rõ ràng về nội dung mà còn phải tuân thủ đầy đủ các quy định pháp lý, bao gồm năng lực chủ thể, hình thức, công chứng và chứng thực. Nếu không bảo đảm các yếu tố này, di chúc dễ phát sinh tranh chấp. Điển hình như vụ kiện vừa được Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tạm dừng phiên xử, liên quan đến tính pháp lý của di chúc, kéo dài gần 10 năm qua các cấp tòa.
Theo hồ sơ, ông Q. (1933-2016) để lại nhà đất tại phường Bình Thọ (cũ), TP HCM. Khi bà Nguyễn Thị Như Ý - con gái ông, đi trích lục hồ sơ để làm thủ tục nhà đất theo giấy ủy quyền do cha bà lập khi còn sống, bà phát hiện tài sản đã được sang tên cho cháu nội (con của người anh cùng cha khác mẹ) theo di chúc được cho là ông Q. lập năm 2008. Bà Ý khởi kiện, yêu cầu tòa tuyên bản di chúc vô hiệu và chia di sản theo pháp luật vì cho rằng bản di chúc có nhiều điểm bất thường.
Quá trình giải quyết vụ kiện cho thấy tính phức tạp kéo dài của các tranh chấp này. Cụ thể, năm 2019, TAND TP HCM xử sơ thẩm lần thứ nhất, tuyên di chúc vô hiệu, xác định công chứng viên đã vi phạm quy định khi để người lập di chúc chỉ điểm chỉ thay vì ký tên, dù xác nhận người này có đủ năng lực hành vi dân sự; đồng thời sử dụng bản photo giấy chứng nhận chiếm ngụ để công chứng, vi phạm quy định kiểm tra bản chính.
Đến năm 2020, TAND Cấp cao tại TP HCM hủy án sơ thẩm. Đầu năm 2024, TAND TP HCM xử sơ thẩm lại, tuyên bản di chúc hợp pháp, dựa trên phản hồi của phòng công chứng cho rằng đã thực hiện đúng trình tự. Tháng 10-2024, phiên phúc thẩm phải tạm dừng để thẩm định đo đạc nhà đất và giám định di chúc; tuy nhiên, giám định không thực hiện được do phòng công chứng chỉ cung cấp bản sao chứng thực, không bàn giao hồ sơ gốc. Trong thời gian này, phát sinh thêm diễn biến bà Ý có đơn xin thay đổi thẩm phán chủ tọa nhưng bị bác. Ngày 29-9-2025, phiên phúc thẩm tiếp tục bị hoãn để chờ kết quả giải quyết khiếu nại của bà Ý từ Chánh án TAND Tối cao.
Minh họa AI: Ý LINH
Vì sao di chúc đã công chứng vẫn vô hiệu?
Phân tích vụ việc, một luật sư thuộc Đoàn Luật sư TP HCM cho rằng di chúc được công chứng ngày 9-1-2008 có nhiều điểm chưa phù hợp quy định pháp luật. Hồ sơ lập di chúc sử dụng bản thảo không do ông Q. trực tiếp viết, trong khi giấy tờ pháp lý chỉ là bản photo, không được công chứng viên đối chiếu với bản chính theo điều 35 Luật Công chứng 2006, nên việc chứng nhận chưa bảo đảm chặt chẽ. Tại thời điểm lập di chúc, tài sản chưa có giấy chứng nhận quyền sở hữu và đang có tranh chấp, vi phạm điều 91 Luật Nhà ở 2005.
Ngoài ra, công chứng viên xác nhận ông Q. đủ năng lực hành vi dân sự nhưng lại yêu cầu ông điểm chỉ thay vì ký tên, trái với khoản 2 điều 41 Luật Công chứng 2006. Theo vị luật sư, đến ngày 27-6-2013, ông Q. mới được công nhận quyền sở hữu tài sản, khi đó mới đủ điều kiện định đoạt hợp pháp. Vì vậy, di chúc được công chứng năm 2008 vi phạm các điều 35, 36, 41 và 48 Luật Công chứng 2006, nên yêu cầu của bà Ý đề nghị tòa tuyên di chúc vô hiệu là có cơ sở pháp lý.
Ở góc nhìn tổng quát, luật sư Chu Văn Hưng (Đoàn Luật sư TP HCM) cho biết Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định hai hình thức thừa kế là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Đối với thừa kế theo di chúc, điều 624 nêu rõ "Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết". Còn theo điều 627, di chúc có thể được lập bằng văn bản hoặc bằng miệng. Trong đó, di chúc bằng văn bản gồm 4 loại: di chúc không có người làm chứng, di chúc có người làm chứng, di chúc bằng văn bản có công chứng và di chúc bằng văn bản có chứng thực.
Luật sư Hưng cho biết di chúc viết tay cũng được pháp luật công nhận là hợp pháp như các loại di chúc có công chứng hoặc chứng thực, miễn là đáp ứng đầy đủ các điều kiện luật định. Cụ thể, người lập di chúc phải minh mẫn, sáng suốt tại thời điểm lập, không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép; nội dung di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; và hình thức di chúc phù hợp quy định pháp luật.
Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều người tự viết di chúc mà không nắm rõ quy định về nội dung và hình thức, dẫn đến việc di chúc có thể bị tòa án tuyên vô hiệu khi xảy ra tranh chấp. Để tránh rủi ro pháp lý, tốt nhất nên lập di chúc có công chứng hoặc chứng thực. Cụ thể, đối với di chúc bằng văn bản có công chứng, người lập di chúc cần yêu cầu công chứng viên lập và chứng nhận nội dung di chúc; còn đối với di chúc bằng văn bản có chứng thực, người lập di chúc có thể đề nghị UBND cấp xã chứng thực di chúc nhằm bảo đảm giá trị pháp lý và tính xác thực của "ý nguyện cuối đời".
Luật sư Chu Văn Hưng cho biết công chứng viên làm sai quy định khiến di chúc bị vô hiệu có thể bị xử lý hành chính (theo Nghị định 82/2020), hình sự, hoặc bồi thường. Theo Luật Công chứng 2024, tổ chức hành nghề công chứng sẽ bồi thường trước, sau đó công chứng viên phải hoàn trả.
TRẦN THÁI