Lấy tiền từ chính công ty của mình để tiêu xài cá nhân, có bị tội?

Lấy tiền từ chính công ty của mình để tiêu xài cá nhân, có bị tội?
một ngày trướcBài gốc
Gửi câu hỏi tới chuyên mục "Chat với chuyên gia" do Pháp Luật TP.HCM phối hợp với Trường Đại học Luật TP.HCM, tổ chức, anh Lê Văn Sơn (Bà Rịa - Vũng Tàu) hỏi:
Tôi vừa đọc tin tức, 1 nữ diễn viên nổi tiếng người Hàn Quốc đã phải ra tòa với cáo buộc biển thủ 4,3 tỷ won từ công ty gia đình do cô này sở hữu 100% để đầu tư vào tiền ảo. Tôi thắc mắc sao lấy tiền từ công ty của mình mà lại bị tội.
Không biết pháp luật Việt Nam quy định như thế nào về vấn đề này?
Ảnh minh họa: MINH HOÀNG
Giải đáp vấn đề trên, TS TRẦN THANH THẢO, Khoa Luật Hình sự, Trường Đại học Luật TP.HCM, cho biết:
Căn cứ theo quy định pháp luật Việt Nam hiện nay, việc xác định trách nhiệm của cá nhân trong trường hợp này sẽ tùy thuộc vào mô hình doanh nghiệp mà cá nhân này làm chủ sở hữu, cụ thể như sau:
Trường hợp doanh nghiệp mà cá nhân này làm chủ sở hữu thuộc mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (công ty TNHH MTV) thì hành vi này có dấu hiệu cấu thành Tội tham ô tài sản (Điều 353 BLHS).
Bởi lẽ, theo quy định tại Luật Doanh nghiệp thì chủ sở hữu công ty TNHH MTV chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty (khoản 1 Điều 74) và tài sản của chủ sở hữu công ty TNHH MTV tách bạch với tài sản của công ty cũng như chủ sở hữu công ty là cá nhân phải tách biệt chi tiêu của mình với chi tiêu của công ty (khoản 3 Điều 77).
Như vậy, cá nhân là chủ sở hữu công ty không được phép tự ý sử dụng tài sản của công ty để tiêu xài cho các mục đích cá nhân. Việc thực hiện hành vi này bị coi là lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý, là hành vi khách quan của Tội tham ô tài sản (Điều 353 BLHS).
Do đó, nếu đáp ứng đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm thì người thực hiện hành vi có thể chịu trách nhiệm hình sự về Tội tham ô tài sản (Điều 353 BLHS).
Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp mà cá nhân này làm chủ sở hữu thuộc mô hình doanh nghiệp tư nhân thì việc xem xét trách nhiệm của cá nhân này sẽ tùy từng trường hợp cụ thể.
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 188 Luật Doanh nghiệp thì chủ doanh nghiệp tư nhân là người quyết định mọi hoạt động của doanh nghiệp tư nhân và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Như vậy, giữa doanh nghiệp tư nhân và chủ doanh nghiệp không có sự tách bạch về tài sản và doanh nghiệp tư nhân phụ thuộc vào chủ doanh nghiệp về sự tồn tại cũng như phát triển của doanh nghiệp.
Vì vậy, trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân tự ý sử dụng tài sản của doanh nghiệp để tiêu xài cho các mục đích cá nhân mà sau đó chủ doanh nghiệp đã hoàn trả bằng tài sản cá nhân của mình để doanh nghiệp vẫn hoạt động bình thường thì sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Tuy nhiên, đối với trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân vay, mượn tài sản cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhưng lại tự ý sử dụng tài sản của doanh nghiệp để tiêu xài cho các mục đích cá nhân dẫn đến không có khả năng trả lại thì chủ doanh nghiệp có thể chịu trách nhiệm hình sự về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS) nếu đáp ứng đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm này.
QUỲNH LINH
Nguồn PLO : https://plo.vn/lay-tien-tu-chinh-cong-ty-cua-minh-de-tieu-xai-ca-nhan-co-bi-toi-post852671.html