Lịch sử tỉnh Nam Định và bốn lần sáp nhập, chia tách

Lịch sử tỉnh Nam Định và bốn lần sáp nhập, chia tách
2 ngày trướcBài gốc
(Ảnh: Vietnam+)
Tỉnh Nam Định nằm ở cửa ngõ phía Đông Nam của vùng Đồng bằng sông Hồng, phía Đông Bắc giáp với tỉnh Thái Bình, phía Tây Nam giáp tỉnh Ninh Bình, phía Tây Bắc giáp tỉnh Hà Nam và phía Đông Nam giáp với Vịnh Bắc Bộ.
Tỉnh Nam Định hiện tại có tổng diện tích là 1.669km2, lớn thứ 52 trong 63 tỉnh thành trên cả nước, tỉnh lỵ đặt tại thành phố Nam Định. Dân số toàn tỉnh tính đến ngày 1/4/2024 là 1.892.427 người, đứng thứ 12 cả nước.
Vùng đất Nam Định vốn nổi tiếng là vùng đất địa linh nhân kiệt, có bề dày lịch sử, giàu bản sắc văn hóa; , là nơi phát tích của vương triều Trần - triều đại thịnh trị bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam và cũng là quê hương của nhiều nhân vật lỗi lạc như Tổng Bí thư Trường Chinh, Trạng nguyên Lương Thế Vinh, các nhà thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương...
Tỉnh Nam Định chính thức được thành lập từ năm 1832, dưới triều đại nhà Nguyễn, đóng vai trò là một trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa quan trọng của vùng Đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên, lịch sử của vùng đất này còn lâu hơn thế và đã trải qua nhiều thay đổi về đơn vị hành chính qua từng thời kỳ.
Vùng đất Nam Định qua các thời kỳ
Thời tiền sử
Trên vùng đất Nam Định, dấu tích con người ở thời kỳ này còn lưu lại ở các dãy núi thuộc huyện Vụ Bản và huyện Ý Yên nằm về phía Tây Bắc của tỉnh.
Tại đây đã tìm thấy những chiếc rìu đá có vai mài lưỡi, các hòn nghè, chày đá và bàn nghiền. Đó là những dấu tích của những cư dân thuộc thời kỳ đồ đá mới hoặc sơ kỳ đồ đồng đã từ vùng rừng núi tiến xuống khai phá vùng đồng bằng ven biển để sinh sống và dần dần tiến tới lập các làng xóm.
Thời Hùng Vương
Nằm trong cương vực nước Văn Lang của các Vua Hùng trải dài từ miền trung du đến miền đồng bằng ven biển, vùng đất Nam Định khi ấy tương đương với đất các huyện Vụ Bản, Ý Yên, Mỹ Lộc, thành phố Nam Định và phần phía bắc của huyện Nam Trực hiện nay.
Theo ngọc phả đền thờ Tam Bành ở thôn Bảo Ngũ, xã Quang Trung thì vào đời vua Hùng Vương, huyện Vụ Bản có tên là huyện Bình Chương thuộc bộ Lục Hải, là một trong 15 bộ của nước Văn Lang.
Bản đồ tỉnh Nam Định năm 1891. (Ảnh: wikipedia)
Thời Bắc thuộc
Sau khi nước Nam Việt bị nhà Tây Hán đánh chiếm vào năm 111 trước Công Nguyên, đất nước bước vào một thời kỳ Bắc thuộc kéo dài hơn 1.000 năm. Nam Định lúc đó nằm trong quận Giao Chỉ.
Nét bao trùm lên lịch sử thời kỳ Bắc thuộc trên đất Nam Định là cuộc đấu tranh chống lại ách đô hộ và âm mưu đồng hóa của phong kiến ngoại bang. Người dân Nam Định nói chung và đặc biệt là phụ nữ, đã hăng hái tham gia và nhanh chóng đứng dưới ngọn cờ nghĩa của Hai Bà Trưng (đầu năm 40) chống lại ách đô hộ của nhà Đông Hán.
Theo tư liệu lịch sử, Nam Định có tới 20 tướng lĩnh cả nam lẫn nữ tham gia cuộc khởi nghĩa này. Dấu tích về các tướng lĩnh tham gia khởi nghĩa tập trung nhiều ở huyện Vụ Bản.
Năm 542, Lý Bí nổi dậy khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của nhà Lương. Sau 4 năm chiến đấu anh dũng, cuộc khởi nghĩa giành được thắng lợi, Lý Bí lên ngôi, xưng Hoàng Đế, xây dựng nước Vạn Xuân độc lập.
Đóng góp vào cuộc khởi nghĩa này, Nam Định có tướng quân Hoàng Tề ở làng Lập Vũ (nay thuộc xã Hiển Khánh, huyện Vụ Bản). Ông được Lý Bí phong chức Túc vệ tướng quân, ban gươm báu và luôn cho hầu bên mình. Khi Lý Bí qua đời, Hoàng Tề theo Triệu Quang Phục.
Thời Ngô-Đinh-Tiền Lê
Sau khi Ngô Quyền mất, vùng hạ lưu sông Hồng khi đó chịu sự chi phối của sứ quân Trần Lãm. Đất Nam Định dần trở thành nơi hội tụ và đối đầu quyết liệt của hào khí bốn phương, trong danh sách 12 sứ quân, rất nhiều vị tướng nhà Đinh và các sứ quân như Trần Lãm, Lã Đường, Ngô Nhật Khánh, Nguyễn Khoan, Phạm Bạch Hổ được thờ ở đây.
Đinh Bộ Lĩnh, người anh hùng "tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời," tự nhận về mình sứ mệnh thiêng liêng dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước – không thể không tìm về vùng đất duyên hải cửa sông này.
Thời Lý-Trần
Dưới thời Lý, Trần, Nam Định không những là một cửa ngõ của cả vùng châu thổ sông Hồng mà còn là một trung tâm kinh tế quan trọng. Các vua Lý đã dành sự quan tâm đặc biệt cho vùng đất này.
Trên đất Nam Định xưa, nhà Lý đã cho xây ít nhất hai hành cung làm nơi cho vua dừng chân nghỉ lại trong những lần đi kinh lý vùng đất này.
Chùa tháp Phổ Minh - dấu tích còn lại của Tức Mặc-Thiên Trường nhà Trần, hành cung quan trọng nhất, có vai trò như kinh đô thứ hai sau Thăng Long. (Ảnh: Bích Hằng/Vietnam+)
Vào thời Trần, Thiên Trường được coi như kinh đô thứ hai. Vị trí ứng với khu vực tháp Phổ Minh và Đền Trần ngày nay. Nơi đây còn có dấu tích của cung Trùng Quang và cung Trùng Hoa.
Do vị trí trọng yếu, Nam Định trở thành một trong những nơi giao tranh quyết liệt. Năm 1203, quân nổi loạn do Phí Lang và Bảo Lương cầm đầu từ Đại Hoàng (Ninh Bình) xuôi theo sông Đáy đến đất Nam Định, mở rộng hoạt động ra vùng hạ lưu.
Sự rối loạn lên đến cực điểm vào năm 1208, khi trong nước "người chết đói nằm chồng chất lên nhau." Đúng lúc triều Lý bất lực trong việc điều hành đất nước, vùng đất Nam Định lại là nơi hưng khởi của nhà Trần, một triều đại đầy sức sống đã đưa quốc gia Đại Việt phát triển hưng thịnh và ba lần đánh thắng quân Nguyên-Mông.
Trị vì đất nước 175 năm, triều Trần đã có những đóng góp hết sức lớn lao với lịch sử dân tộc. Với hào khí Đông A, nhà Trần đã đưa đất nước vào một thời kỳ thịnh trị bằng những thành tựu đặc sắc trên mọi phương diện quân sự, kinh tế và văn hóa.
Những người con ưu tú của đất Nam Định thời Trần mà tiêu biểu là Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, các vị vua anh hùng như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông... đã trở thành những vị thánh trong lòng dân, được thờ phụng ở khắp mọi miền của đất nước.
Thời thuộc Minh
Năm 1407, sau khi đánh bại cuộc kháng kháng chiến của nhà Hồ, giặc Minh bắt đầu thiết lập chính quyền đô hộ trên đất nước ta, chúng chia nước ta làm 15 phủ. Phần đất Nam Định lúc ấy thuộc phủ Kiến Bình và Phụng Hóa.
Cùng với cả nước, đất Nam Định trong suốt thời kỳ quân Minh đô hộ chưa khi nào nguôi tắt ngọn lửa đấu tranh dưới nhiều hình thức của nhân dân chống quân xâm lược. Ngay trong những ngày tháng đầu tiên, người Nam Định đã tiến hành khởi nghĩa chống giặc Minh mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Trần Ngỗi.
Thời Lê
Vùng đất nam sông Hồng, trong đó địa bàn chủ yếu là Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình ngày nay, từ nửa cuối thế kỷ 15, được triều đình nhà Lê quan tâm đặc biệt.
Trên vùng ven biển Nam Định chứng kiến một công trình kết tinh thành quả to lớn của nhân dân Đại Việt đó là việc khởi công và hoàn thành đê Hồng Đức, một con đê ngăn nước mặn có quy mô lớn đầu tiên của vùng châu thổ.
Trong vòng 100 năm của thời Lê sơ, Nam Định có đến 22 tiến sỹ (chiếm gần 1/4 tổng số đại khoa của Nam Định trong suốt lịch sử thi cử Nho học 1075-1919). Đại bộ phận số đại khoa này đều đỗ vào nửa sau thế kỷ 15, cho nên có thể nói Nho học ở Nam Định đã thực sự có bước phát triển mới từ sau sự kiện Lương Thế Vinh đỗ Trạng nguyên (1463).
Thời Nguyễn
Dưới triều Nguyễn, năm 1822 (Minh Mạng thứ 3) đổi tên trấn Sơn Nam Hạ thành trấn Nam Định. Đến năm Minh Mạng thứ 13 (1832) đổi trấn Nam Định thành tỉnh Nam Định (tỉnh Nam Định được thành lập), với 4 phủ, 18 huyện, bao gồm phần đất tỉnh Thái Bình hiện nay.
Thành phố Nam Định hồi cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. (Ảnh tư liệu)
Năm 1890, Thái Bình tách ra thành tỉnh riêng và một phần phía Bắc Nam Định tách ra để cùng một phần phía Nam Hà Nội lập thành tỉnh Hà Nam (chữ "Hà" trong từ "Hà Nội" và chữ "Nam" trong từ "Nam Định").
Điều này cũng lý giải cho việc vì sao chuối ngự thường được gọi là chuối ngự Nam Định bởi cho đến 1890 vùng Lý Nhân vẫn thuộc Nam Định. Từ năm 1890 Nam Định còn lại 2 phủ và 9 huyện.
Thời kỳ độc lập (từ năm 1945 đến nay)
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, các đơn vị hành chính trong tỉnh luôn có sự thay đổi.
Có một giai đoạn ngắn nơi đây gồm tỉnh Nam Định, tỉnh Bùi Chu và thành phố Nam Định. Tỉnh lỵ Nam Định đặt ở Hành Thiện, Xuân Trường. Sau đó, Bùi Chu nhập với Nam Định mang tên tỉnh Nam Định.
Ngày 3/9/1957, thành phố Nam Định, trước đó là thành phố trực thuộc Trung ương, sáp nhập vào tỉnh Nam Định. Thành phố Nam Định là tỉnh lỵ của tỉnh Nam Định từ đó.
Năm 1953, 7 xã ở phía Bắc sông Đào thuộc huyện Nghĩa Hưng được cắt nhập vào huyện Ý Yên. Đồng thời, 3 huyện Mỹ Lộc, Vụ Bản, Ý Yên của tỉnh Nam Định nhập vào tỉnh Hà Nam.
Đến tháng 4/1956, 3 huyện này lại được cắt trả cho Nam Định.
Cổng vào Văn Miếu Nam Định, nay đã không còn. (Ảnh: wikipedia)
Tháng 5/1965, tỉnh Nam Định được hợp nhất với tỉnh Hà Nam thành tỉnh Nam Hà. Theo cách đặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tên đảo ngược hai chữ là Nam Hà thành Hà Nam.
Ngày 13/6/1967, 2 huyện Giao Thủy và Xuân Trường hợp thành huyện Xuân Thủy; thành phố Nam Định được mở rộng thêm trên cơ sở sáp nhập huyện Mỹ Lộc.
Ngày 26/3/1968, 7 xã phía Nam sông Ninh Cơ thuộc huyện Trực Ninh nhập với huyện Hải Hậu, 2 huyện Trực Ninh và Nam Trực nhập thành huyện Nam Ninh.
Năm 1975, Nam Hà hợp nhất với tỉnh Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh.
Năm 1991, tỉnh Hà Nam Ninh chia tách thành 2 tỉnh như cũ là Nam Hà và Ninh Bình.
Ngày 6/11/1996, tách tỉnh Nam Hà thành hai tỉnh Nam Định và Hà Nam.
Năm 2024, Nam Định là tỉnh đầu tiên trong cả nước hoàn thành sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã với số lượng lớn, gồm sáp nhập huyện Mỹ Lộc vào thành phố Nam Định, thành lập 3 phường.
Hiện, tỉnh có 9 đơn vị hành chính cấp huyện (gồm 8 huyện và thành phố Nam Định); 175 đơn vị hành chính cấp xã (gồm 146 xã, 14 phường và 15 thị trấn); sau sắp xếp, các đơn vị đã hoạt động ổn định từ ngày 1/9/2024.
Vùng đất hiếu học, văn hiến, văn nhân
Nam Định từ xa xưa nổi tiếng là vùng đất học, đất văn, có “làng học” Hành Thiện nức tiếng cả xưa lẫn nay về việc có nhiều con em học hành đỗ đạt, thành tài, với các thành tích học tập, thi cử luôn trong top đầu cả nước, đi vào dân gian với câu ca “Đông Cổ Am-Nam Hành Thiện."
Đền thờ Trạng nguyên Nguyễn Hiền tọa lạc trên chính vị trí ngôi nhà của ông xưa kia tại thôn Dương A, xã Nam Thắng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. (Ảnh: Bích Hằng/Vietnam+)
Nơi đây chính là quê hương của 5 vị trạng nguyên nổi danh trong lịch sử khoa cử phong kiến là Nguyễn Hiền, Lương Thế Vinh, Trần Văn Bảo, Đào Sư Tích, Trần Bích San.
Vùng đất giàu truyền thống này cũng sinh ra nhiều chiến sỹ cách mạng tiền bối và nhà lãnh đạo cách mạng xuất sắc của Đảng, Nhà nước như Tổng Bí thư Trường Chinh, Nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, chính khách Lê Đức Thọ, Đại tướng Mai Chí Thọ...
Nam Định còn là quê hương của nhạc sỹ Văn Cao, tác giả “Quốc ca Việt Nam;” quê hương của các thi sỹ tài danh Tú Xương, Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ…
Trung tâm phát triển quan trọng của vùng Nam Đồng bằng sông Hồng
Theo Quy hoạch tỉnh Nam Định thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Nam Định sẽ trở thành tỉnh phát triển nhanh, toàn diện, bền vững; là tỉnh phát triển khá của cả nước, một trung tâm phát triển quan trọng của vùng Nam đồng bằng sông Hồng, với mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2021-2030 khoảng 9,5%/năm.
Kinh tế-xã hội của tỉnh được tổ chức phát triển theo mô hình "3 vùng động lực, 4 cực tăng trưởng, 5 hành lang kinh tế" với định hướng phát triển kinh tế đa ngành, đa lĩnh vực, trọng tâm là phát triển công nghiệp, dịch vụ, kinh tế biển, ven biển.
Ba vùng động lực được xác định là vùng đô thị thành phố Nam Định mở rộng; vùng nông nghiệp-nông thôn và vùng kinh tế biển. 4 cực tăng trưởng là: đô thị trung tâm thành phố Nam Định; trung tâm đô thị Cao Bồ, huyện Ý Yên; trung tâm đô thị Thịnh Long-Rạng Đông; trung tâm đô thị huyện Giao Thủy.
Một góc Khu công nghiệp Dệt may Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. (Ảnh: TTXVN phát)
Năm hành lang kinh tế là hành lang quốc lộ 10; hành lang cao tốc Bắc-Nam; hành lang đường bộ ven biển; hành lang đường bộ mới thành phố Nam Định-Lạc Quần-Giao Thủy; hành lang cao tốc Ninh Bình-Nam Định-Hải Phòng.
Tầm nhìn đến năm 2050, Nam Định trở thành trung tâm kinh tế hiện đại, động lực phát triển quan trọng của vùng Đồng bằng sông Hồng, có hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện đại, kết nối giao thương hàng hóa, dịch vụ và văn hóa của vùng./.
(Vietnam+)
Nguồn VietnamPlus : https://www.vietnamplus.vn/lich-su-tinh-nam-dinh-va-bon-lan-sap-nhap-chia-tach-post1021294.vnp