Thành phố Vĩnh Yên là trung tâm kinh tế chính trị, văn hóa xã hội lớn nhất của tỉnh Vĩnh Phúc. (Ảnh: Hoàng Hùng/TTXVN)
Vĩnh Phúc là vùng đất có vị thế đặc biệt trong trường kỳ lịch sử dựng nước và giữ nước của quốc gia-dân tộc; thuộc đất cổ xứ Đoài, là trung tâm của Bắc Bộ Việt Nam, nằm trọn trong vùng chuyển tiếp địa-văn hóa miền núi, trung du Tây Bắc xuống đồng bằng Đông Nam châu thổ Bắc Bộ, là miền giao thoa giữa vùng văn hóa Hùng Vương với văn hóa Kinh Bắc-Thăng Long.
Vị trí địa lý
Vĩnh Phúc là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, cửa ngõ của Thủ đô Hà Nội, gần Sân bay Quốc tế Nội Bài, là cầu nối giữa các tỉnh phía Tây Bắc với Hà Nội và đồng bằng châu thổ sông Hồng, vì vậy tỉnh có vai trò rất quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế vùng và quốc gia.
Phía Bắc tỉnh Vĩnh Phúc giáp tỉnh Tuyên Quang và Thái Nguyên, phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ, phía Nam giáp thủ đô Hà Nội, phía Đông giáp 2 huyện Sóc Sơn và Đông Anh, Hà Nội.
Một góc thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. (Ảnh: Hoàng Hùng/TTXVN)
Tỉnh Vĩnh Phúc có diện tích không lớn song có địa hình đa dạng phong phú, vừa có vùng đồng bằng phì nhiêu bao quanh các dòng sông Hồng, sông Lô, sông Đáy, sông Phan, sông Cà Lồ kéo dài từ đỉnh tam giác sông Hồng xuống gần thủ đô Hà Nội, vừa có vùng trung du đồi gò bát úp kéo dài từ Lập Thạch qua Vĩnh Yên xuống tận Bình Xuyên, nam Phúc Yên và có cả dãy núi Tam Đảo với ba ngọn Thạch Bàn, Thiên Thị và Phù Nghĩa.
Trong lòng đất Vĩnh Phúc chứa nhiều tài nguyên phong phú như: than nâu, than bùn, mỏ sắt, mỏ thiếc, đất sét, cao lanh... và trên rừng rậm Tam Đảo có nhiều động thực vật quý hiếm, không phải nơi nào cũng có.
Lịch sử hình thành tỉnh Vĩnh Phúc
Theo Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc, khoảng 2 vạn năm trước, những lớp người đầu tiên từ vùng núi cao Tây Bắc-Đông Bắc xuống khai phá vùng đồi gò gần sông suối trên đất Lập Thạch và vùng đồi gò ven dãy Tam Đảo, chạy dài xuống tận vùng Phúc Yên.
Họ cùng với cư dân Phú Thọ khai phá vùng trung du gò đồi hai bên bờ sông Lô, sông Hồng. Dấu tích cuộc sống của họ để lại là những công cụ cuội ghè đẽo thô sơ hình múi bưởi hoặc hình 1/4 viên cuội mà các nhà khảo cổ định danh là văn hóa Sơn Vi. Những công cụ này được dùng để chặt cây, xới đất, đào củ và cũng có thể vót tre, nứa, nạo lông thú, cắt xẻ thịt thú rừng, phục vụ cho việc chinh phục thiên nhiên.
Sau lớp cư dân văn hóa Sơn Vi, do nhiều nguyên nhân, con người lùi vào sinh sống trong các hang động trên vùng núi cao nên trên đất Vĩnh Phúc chưa phát hiện dấu tích cuộc sống của con người trong khoảng trên dưới 1 vạn năm đến khoảng 5.000 năm trước. Đó cũng là tình hình phổ biến khắp vùng trung du đồng bằng miền Bắc nước ta.
Khoảng 4.000 năm trước, với sự xuất hiện của nghề luyện kim đồng và đặc biệt là sự ra đời của nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước, cư dân lúc bấy giờ đã tiến dần xuống khai phá vùng đồng bằng phù sa cổ ven các sông suối, đầm hồ.
Với kỹ thuật mới, bên cạnh những công cụ và đồ trang sức bằng đá mài nhẵn cực kỳ tinh xảo và sắc bén, họ đã có thêm những công cụ như rìu, đục và vũ khí bằng đồng. Những công cụ này đã giúp con người có thể sống ổn định lâu dài trên các gò đồi, doi đất cao ven sông hồ, hình thành nên những xóm làng nông nghiệp trên đất Vĩnh Phúc.
Trên cơ sở nền nông nghiệp trồng lúa nước khá phát triển, con người đã xây dựng một nền thủ công nghiệp khá đa dạng, bao gồm nhiều ngành nghề như các công xưởng chế tác đá, các lò nung gốm, đặc biệt là các lò luyện đúc đồng. Những đồ gốm trong các di tích Lũng Hòa, Nghĩa Lập về kiểu dáng cũng như hoa văn trang trí cho thấy bước tiến vượt bậc về kỹ thuật chế tác. Còn hai di tích Đồng Đậu và Thành Dền là hai trung tâm luyện đúc đồng thời tiền sử có quy mô lớn nhất nước ta lúc bấy giờ, ít nhiều khẳng định tính chuyên môn hóa và chuyên nghiệp của bộ phận thủ công nghiệp trong đời sống xã hội.
Chính những thành tựu này đã chuẩn bị tiền đề cho sự ra đời của nhà nước đầu tiên của người Việt cổ trên lưu vực sông Hồng. Quá trình này được các nhà sử học gọi là thời Tiền Hùng Vương, bao gồm ba giai đoạn phát triển nối tiếp nhau là Phùng Nguyên, Đồng Đậu và Gò Mun.
Khoảng 2.700 năm trước, sự phổ biến của nền nông nghiệp dùng lưỡi cày đồng trâu bò kéo và sự ra đời của kỹ thuật luyện sắt đã hoàn toàn loại bỏ công cụ đá ra khỏi đời sống, thúc đẩy nền kinh tế phát triển vượt bậc, làm thay đổi bộ mặt xã hội lúc bấy giờ.
Đây là thời kỳ nền văn hóa Đông Sơn được hình thành trên toàn bộ khu vực cư trú của người Việt cổ trên lưu vực các sông Hồng, sông Mã và sông Cả. Kinh tế phát triển, sản xuất được đẩy mạnh dẫn đến sự phân hóa tài sản và phân hóa xã hội. Trong xã hội đã phân biệt kẻ giàu, người nghèo, một nhà nước sơ khai được hình thành nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng và nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương.
Ngoài ra, dấu tích của trống đồng Minh Quang, trống đồng Đạo Trù và những bộ sưu tập rìu, giáo đồng ở Đồng Đậu, Nghĩa Lập cùng huyền thoại về bà Lăng Thị Tiêu quê Đại Đình giúp Hùng Duệ Vương đánh giặc giữ nước, được sắc phong là “Tam Đảo trụ quốc tối linh đại vương," nhân dân tôn kính lập nhiều đền miếu thờ phụng, mà tiêu biểu hơn cả là đền Tây Thiên trên núi Tam Đảo đã khẳng định những đóng góp của nhân dân Vĩnh Phúc vào sự phát triển của dân tộc.
Suốt 1.000 năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, nhân dân Vĩnh Phúc không lúc nào ngừng nổi lên đấu tranh giành lại độc lập cho đất nước.
Tiêu biểu hơn cả là vào khoảng đầu công nguyên, ở huyện Mê Linh, hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị vì nợ nước thù nhà đã xây thành đắp lũy, phất cờ khởi nghĩa đánh quân Đông Hán, được nhân dân khắp mọi miền hưởng ứng. Hai bà đã thu phục được 65 thành, tự xưng là Trưng Vương, đóng đô ở Mê Linh.
Lược đồ đường tiến quân của Hai Bà Trưng. (Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia)
Lần đầu tiên, Mê Linh trên đất Vĩnh Phúc trở thành kinh đô của đất nước. Không những thế, nhiều hào kiệt cùng quê hương Vĩnh Phúc đã mộ dân đi theo Hai Bà, cầm quân đánh giặc.
Truyền thuyết, thần tích ở đây còn lưu lại nhiều tấm gương hi sinh oanh liệt như bà Lê Thị Ngọc Chinh ở Vĩnh Tường, 5 anh em con bà Triệu Thị Khoan Hòa hoặc cô cháu bà Do La thần nữ và 4 chị em ông An Bình Lý ở Bình Xuyên.
Tiếp nối truyền thống chống xâm lược của Hai Bà, nhiều người con Vĩnh Phúc như Lý Bí rồi Lý Phật Tử sau đó đã nổi lên chống sự thống trị của nhà Tùy, lập nên nước Vạn Xuân. Tuy tồn tại không được bao lâu song hình ảnh một nước Vạn Xuân độc lập là tấm gương, ước muốn của nhân dân ta, được nhân dân tôn kính, lập đền thờ.
Sang thế kỷ 10, Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán, mở đầu kỷ nguyên độc lập của dân tộc. Song vì tính chất phân tán cát cứ còn mạnh, chính quyền trung ương còn yếu, nên sau đó không bao lâu, cục diện 12 sứ quân đã hình thành trên vùng trung du đồng bằng Bắc Bộ.
Ở Vĩnh Phúc có sứ quân của Nguyễn Khắc Khoan, ông người Yên Lạc là một hào kiệt được phân phong vùng Tam Đái. Nguyễn Khắc Khoan tài trí, mưu lược, lại có nhiều việc làm được lòng dân, nên ông được dân suy tôn làm minh chủ, đóng đại bản doanh ở núi Biện Sơn. Sau nhiều lần giao tranh, cuối cùng ông bị quân của Đinh Bộ Lĩnh thu phục; về sau, nhiều đền thờ ông đã được lập trên đất quê nhà.
Sang thời Lý-Trần, với vị trí kề cận kinh đô Thăng Long, đất đai màu mỡ, đường giao thông thủy, bộ thuận lợi, nền kinh tế nông nghiệp cũng như thủ công nghiệp Vĩnh Phúc có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Một số ngành nghề truyền thống như nghề làm đồ gốm ở vùng Kẻ Cánh (Hương Canh), không chỉ sản xuất đồ dùng phục vụ cuộc sống sinh hoạt hằng ngày mà còn làm ra gạch ngói xây dựng nên những chùa tháp nổi tiếng khắp vùng, như tháp Đạo Trù, tháp Kim Tôn, tháp Bình Sơn, Chùa Cói, chùa Yên Nhiên, chùa Then... Nghề đục cối đá ở Hải Lựu, nghề luyện rèn sắt ở khu vực Thanh Vân-Đạo Tú, Thùng Mạch.
Đời sống vật chất ngày một cải thiện, người dân Vĩnh Phúc bắt đầu chăm lo đến sự học, tiến thân bằng con đường khoa bảng. Suốt thời trung đại, Vĩnh Phúc có hơn 100 vị đỗ bậc đại khoa. Việc học hành ở địa phương được quan lại và nhân dân ở đây coi trọng.
Vĩnh Phúc cũng là quê hương của nhiều bậc đại khoa văn võ toàn tài, liêm chính đức độ, được triều đình giao phó chức cao quyền trọng, như Triệu Thái người huyện Lập Thạch là lưỡng quốc tiến sỹ làm đến chức Thị ngự sử đứng đầu Ngự sử đài và quan giám thị kì thi Đình Nguyễn Văn Chất người huyện Vĩnh Tường đỗ tiến sỹ làm đến chức Đô ngự sử và Thượng thư Bộ Hộ.
Nguyễn Duy Thì người huyện Yên Lãng đỗ tiến sỹ từ rất sớm giữ các chức hướng thư Bộ Binh, Tế tửu trường Quốc Tử Giám. Trên đất Vĩnh Phúc có nhiều gia tộc, nhiều làng xã hiếu học như xã Sơn Đông huyện Lập Thạch có tới 13 vị đỗ tiến sỹ, xã Phú Xuân có 8 vị đỗ tiến sỹ và xã Minh Tân, nay là thị trấn Yên Lạc cũng có tới 7 vị đỗ tiến sỹ.
Vĩnh Phúc cũng sản sinh ra nhiều hào kiệt có nhiều công lao trong các cuộc kháng chiến chống bọn xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. Dưới thời Lý, Vĩnh Tường có Nguyễn Văn Nhượng còn được lịch sử khắc ghi với chiến công “Bình Ai Lao” ở biên giới miền Tây, Yên Lạc có Phạm Công Bình có công dẹp giặc giữ yên biên giới phía nam.
Dưới thời Trần, trong ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, trên đất Vĩnh Phúc còn lưu truyền câu chuyện "Thất vị Lỗ Đình Sơn" 7 anh em con ông Lỗ Trọng, quê Lập Thạch đã đánh bại quân Nguyên cố thủ ở làng Nhật Chiêu, Yên Lạc, chém hơn 1.000 đầu giặc, được vua Trần Thái Tông phong tước Đại Vương, sau khi qua đời được nhân dân lập đền thờ tại nhiều nơi trong huyện.
Trong cả ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, tại phòng tuyến Bình Lệ Nguyên trên sông Cà Lồ, nhân dân Vĩnh Phúc đã cùng quân binh nhà Trần hợp sức chống giặc rất anh dũng.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, Trần Nguyên Hãn, hậu duệ nhà Trần, người đất Sơn Đông, Lập Thạch, sau nhiều năm nung nấu, đã tìm về Lam Sơn tụ nghĩa dưới trướng Lê Lợi. Là tướng tâm phúc của Lê Lợi, ông có công lớn trong các chiến thắng lẫy lừng Xương Giang, Đông Quan, Hòa Bình lập lại, ông được phong chức Tả Tướng Quốc. Nhân dân lập đền thờ ông ở quê hương và coi ông là phúc thần của cả vùng Lập Thạch.
Sang thế kỷ 17-18, khi chế độ phong kiến Việt Nam dần suy vi, đời sống xã hội khó khăn, nhân dân Vĩnh Phúc đã vùng dậy khởi nghĩa chống chính quyền. Tiêu biểu hơn cả là cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Danh Phương, còn gọi là Quận Hẻo. Ông người Yên Lạc đã chiêu tập những người cùng khổ lập căn cứ ở Tam Đảo, Lập Thạch chống lại sự áp bức của triều đình Lê Trịnh.
Đã có lúc căn cứ của ông đã mở rộng ra cả vùng Sơn Tây, Thái Nguyên và nhiều lần Nguyễn Danh Phương đem quân tiến sát thủ đô Thăng Long làm cho triều đình Lê Trịnh phải khốn đốn. Tuy thất bại nhưng trên đất Vĩnh Phúc vẫn còn nhiều địa danh ghi dấu những năm tháng hoạt động sôi nổi của nghĩa quân Nguyễn Danh Phương.
Trong buổi đầu thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào đấu tranh của nhân dân Vĩnh phúc dưới sự lãnh đạo của các sỹ phu văn thân yêu nước cũng liên tiếp nổ ra. Nhiều căn cứ kháng chiến được thành lập khắp vùng Lập Thạch, Yên Lạc, Vĩnh Tường, Kim Anh. Trong đó, tiêu biểu là phong trào của Đốc Giang, Đốc Khoát, Đốc Kết. Nghĩa quân đã tiến công tiêu diệt nhiều sinh lực địch, gồm cả quân lính Pháp.
Sang đầu thế kỷ 20, Vĩnh Phúc là địa bàn hoạt động quan trọng của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám, nhất là sau khi nghĩa quân buộc phải rời Phồn Xương. Trên dải đất từ Tam Đảo xuống tới Kim Anh, Mê Linh của Vĩnh Phúc đã diễn ra nhiều cuộc chiến đấu anh dũng của nghĩa quân do Cả Huỳnh, Cả Tuyển chỉ huy, tiêu diệt nhiều quân địch, tiêu biểu nhất là trận Núi Sáng.
Tiếp sau đó, để phục vụ cho cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 1 mà Pháp là một bên tham chiến, chính quyền thực dân đã tăng cường vơ vét của cải và bắt lính đã gây nên một phong trào đấu tranh mạnh mẽ, nổi bật có cuộc nổi dậy của quân dân ta dưới sự lãnh đạo của Trịnh Văn Cấn và Lương Ngọc Quyến. Cuộc nổi dậy đã giành được thắng lợi ở tỉnh lỵ Thái Nguyên, nhưng sau đó Trịnh Văn Cấn phải vượt qua Tam Đảo về vùng Liễn Sơn, Đạo Trù thuộc huyện Lập Thạch tổ chức chiến đấu, tiêu biểu nhất là trận Hoàng Xá Hạ. Trong trận chiến kéo dài hai ngày này, binh lính của Đội Cấn đã gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề.
Vào thập niên 20 của thế kỷ 20, chịu ảnh hưởng của Cách mạng Tân Hợi-Trung Quốc (1911) Nguyễn Thái Học (người Vĩnh Tường) cùng một số bạn bè đã thành lập Việt Nam Quốc dân đảng theo chủ nghĩa tam dân của Tôn Dật Tiên (Trung Quốc). Vĩnh Phúc là địa bàn hoạt động chính của đảng và đã xây dựng được một số chi bộ ở huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc.
Cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân đảng nổ ra năm 1930 ở Yên Bái và Vĩnh Phúc đã bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Tuy thất bại nhưng cuộc khởi nghĩa đã thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển, làm giàu thêm truyền thống đấu tranh bất khuất trong lòng người dân Vĩnh Phúc.
Sau khi Đảng Cộng sản ra đời, hai chi bộ đầu tiên ở Vĩnh Yên và làng Bích Đại được thành lập. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, phong trào cách mạng ở Vĩnh Phúc bước sang một giai đoạn mới. Nhân dân Vĩnh Phúc đã tiến hành nhiều cuộc đấu tranh trong thời kỳ mặt trận Dân chủ cũng như trong cao trào đấu tranh tiến tới giành thắng lợi trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945.
Năm 1950, tỉnh Vĩnh Phúc được thành lập trên cơ sở sáp nhập 2 tỉnh: Vĩnh Yên và Phúc Yên.
Năm 1968, Vĩnh Phúc sáp nhập với tỉnh Phú Thọ thành tỉnh Vĩnh Phú.
Từ ngày 1/1/1997, tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập.
Vĩnh Phúc qua những lần thay đổi địa giới hành chính
Ngày 12/2/1950, tỉnh Vĩnh Phúc được thành lập trên cơ sở hợp nhất tỉnh Vĩnh Yên và tỉnh Phúc Yên với diện tích là 1.715km2 và 47 vạn người.
Thăm tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ nhất vào ngày 2/3/1963, Bác Hồ biểu dương tinh thần chống hạn của quân và dân Vĩnh Phúc. (Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát)
Ngày 26/1/1968, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết số 504 về hợp nhất tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Phú Thọ thành tỉnh Vĩnh Phú. Sau khi hợp nhất, tỉnh Vĩnh Phú có tổng diện tích hơn 5.103km2, với 1 thành phố, 3 thị xã, 18 huyện và gần 1,3 triệu dân.
Sau gần 29 năm hợp nhất, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã ra Nghị quyết tách tỉnh Vĩnh Phú thành 2 tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ. Tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập và đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1997.
Khi tái lập, tỉnh có diện tích hơn 1.370km2 với 6 huyện, 1 thị xã, dân số 1,1 triệu người. Từ năm 1997 đến nay, đã có nhiều lần thay đổi về địa giới hành chính tỉnh và các huyện, thành phố trực thuộc.
Cuối năm 2003, thị xã Phúc Yên và huyện Tam Đảo được tái lập. Năm 2008, huyện Mê Linh sáp nhập vào thủ đô Hà Nội. Năm 2009, huyện Lập Thạch chia tách thành 2 huyện là Lập Thạch và Sông Lô.
Việc tái lập tỉnh và thay đổi địa giới hành chính các huyện, thành phố trực thuộc là yêu cầu lịch sử khách quan và cũng là mong muốn chung của nhiều địa phương trong cả nước vào thời điểm đó.
Sau hơn 10 năm tái lập, một lần nữa địa giới hành chính của tỉnh Vĩnh Phúc lại có sự thay đổi. Căn cứ theo Nghị quyết 15 ngày 29/5/2008 của Quốc hội khóa XII, huyện Mê Linh chính thức được bàn giao và sáp nhập vào thành phố Hà Nội kể từ ngày 1/8/2008.
Đến nay, Vĩnh Phúc có có diện tích tự nhiên trên 1,2 triệu km2, dân số trên 1,1 triệu người gồm 2 thành phố: Vĩnh Yên và Phúc Yên, 7 huyện, 136 đơn vị hành chính cấp xã.
Công viên trung tâm tại thị trấn Tam Đảo, Vĩnh Phúc. (Nguồn: TTXVN)
Là một trong những tỉnh có diện tích nhỏ nhất cả nước song từ khi tái lập tỉnh năm 1997 đến nay, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Vĩnh Phúc không ngừng nỗ lực, sáng tạo, chủ động vượt qua khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu đáng tự hào trên các lĩnh vực.
Từ một tỉnh nghèo, thuần nông với nền kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp những năm đầu tái lập, Vĩnh Phúc đã khai thác các tiềm năng, thế mạnh về vị trí địa lý, nguồn lực đất đai, nguồn nhân lực, hạ tầng giao thông với trọng tâm phát triển công nghiệp là nền tảng, du lịch dịch vụ là mũi nhọn; quan tâm phát triển lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống người dân./.
(Vietnam+)