Liệu điều này có cần thiết và hợp lý trong khi “Nghị quyết số 10 của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa 12 về phát triển kinh tế tư nhân thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” được ban hành ngày 3-6-2017 đã có các nội dung khá toàn diện và vẫn đang trong quá trình triển khai thực hiện?
Nói đến kinh tế tư nhân, cần hiểu rằng đó chính là bản thân nền kinh tế, bởi thị trường chính là nơi các hoạt động kinh tế do người dân làm chủ và trực tiếp tiến hành,Nhà nước chỉ đóng vai trò điều tiết, hỗ trợ. Ảnh minh họa: H. Lê
Trao đổi với hai nhóm đối tượng, tôi đã có những phản hồi khác biệt. Đối với các chuyên gia gần gũi và am hiểu về thể chế và chính sách, các nghị quyết về phát triển kinh tế đã có nhiều nhưng thực thi không được bao nhiêu. Điều cần thiết lúc này, do đó là tư duy đột phát và thái độ quyết liệt được thể hiện bằng nghị quyết mới.
Còn đối với nhóm đại diện cho các doanh nghiệp, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME), họ thể hiện thái độ chấp nhận thực tại hơn là đòi hỏi thay đổi về môi trường thể chế hay chính sách. Tuy nhiên, tất cả cùng liệt kê ra hàng loạt khó khăn, thách thức phải đối mặt hàng ngày và tìm cách giải quyết, cốt làm sao để duy trì sự tồn tại hơn là kỳ vọng vào sự tăng trưởng.
Như vậy, với góc nhìn từ thực tiễn, trong bối cảnh triển khai chủ trương lớn của Đảng về nhận diện và khai thông các “điểm nghẽn thể chế” cho phát triển, cách tiếp cận nào trong quản trị quốc gia sẽ là phù hợp ở thời điểm hiện nay?
Việc đơn giản đầu tiên là cần nhận thức vấn đề một cách thực chất và cụ thể. Chủ trương và đường lối phát triển kinh tế tư nhân không phải xuất phát từ các nghị quyết của Đảng gần đây mà đã được khẳng định từ Đại hội Đảng lần thứ VI khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới, với việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung với doanh nghiệp nhà nước làm chủ đạo sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa đa thành phần, đi kèm theo đó là mở cửa cho đầu tư nước ngoài. Cho đến nay, chủ trương này là liên tục, nhất quán và chắc chắn không thể đảo ngược. Các nghị quyết của Đảng và chính sách của Nhà nước sau đó liên quan đến kinh tế tư nhân chủ yếu có tính chất cụ thể hóa và thúc đẩy.
Tuy nhiên, khi nền kinh tế thị trường đa thành phần đã phát triển vượt bậc, đạt tới quy mô không nhỏ và các cấu trúc đa dạng, phức tạp, những chủ trương và chính sách ở tầm khái quát như tuyên ngôn về quan điểm chính trị hay định hướng chung không còn nhiều ý nghĩa và tác dụng.
Cụ thể, nếu nói đến kinh tế tư nhân thì cần hiểu rằng đó chính là bản thân nền kinh tế, bởi thị trường chính là nơi các hoạt động kinh tế do người dân làm chủ và trực tiếp tiến hành, trong khi Nhà nước chỉ đóng vai trò điều tiết, hỗ trợ. Cho nên, thay cho sự phân định có tính ám ảnh về các khái niệm “tư nhân” và “nhà nước” thì rất cần làm rõ các khu vực kinh tế nào, bộ phận hay nhóm doanh nghiệp nào của nền kinh tế đang là đối tượng cụ thể của các chính sách được ban hành.
Điều hợp lý cần làm là trên nền tảng của nhiều nghị quyết đã ban hành và Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời thông qua đối thoại trực tiếp với từng nhóm hay cộng đồng doanh nghiệp, các chính sách liên quan sẽ được cụ thể hóa bằng các văn bản hành pháp như nghị định, thông tư hay quyết định để quy định các biện pháp hỗ trợ thiết thực đối với khu vực SME trong nước.
Cũng từ phương diện chính sách, cần phân định hai nhóm chủ thể đầu tiên, đó là doanh nghiệp do người nước ngoài làm chủ, gọi là doanh nghiệp FDI, và doanh nghiệp nội địa do người Việt Nam làm chủ. Xác định mục tiêu chính trị là tăng trưởng GDP nhanh bằng giải pháp xuất khẩu, các doanh nghiệp FDI đã lên ngôi bởi khả năng hội nhập vào chuỗi cung ứng và do đó luôn được khuyến khích, bảo hộ và ưu tiên hỗ trợ.
Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ khu vực FDI sẽ là gì và nền kinh tế sẽ còn gì nếu một ngày đẹp trời trong tương lai, nguồn lao động rẻ và tiêu chuẩn môi trường thấp ở Việt Nam không còn nữa, ví dụ như thông tin trên phương tiện truyền thông quốc tế vừa qua, về việc Tập đoàn Apple chuyển dịch một phần chuỗi đầu tư từ Việt Nam sang Ấn Độ, nơi có các lợi thế tương tự nhưng cạnh tranh hơn?(1)
Đối với doanh nghiệp nội địa, cho dù vẫn duy trì nguyên tắc Hiến định về vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, thực chất không còn sự ưu tiên đối với doanh nghiệp nhà nước, ngoại trừ các lĩnh vực và trong phạm vi cần sử dụng các doanh nghiệp này như công cụ của chính sách vĩ mô. Tuy nhiên, ở một phương diện khác, theo phản ánh từ nhiều diễn đàn học thuật và thực tiễn chính sách, vẫn có quan điểm và khuynh hướng cho rằng cần khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân lớn hay siêu lớn để trở thành các “quả đấm thép” hay “con sếu đầu đàn” về kinh tế trên thương trường, qua đó giúp tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Điều trớ trêu là mặc dù không có một đạo luật riêng về hỗ trợ doanh nghiệp lớn hay siêu lớn tương tự như Luật Hỗ trợ doanh nghiệp SME hiện hành, theo các khảo sát từ nhiều cơ quan, tổ chức, sự phân bổ các nguồn lực chủ yếu như đất đai, tài nguyên, tài chính và cơ hội dự án hạ tầng vẫn được ưu tiên tuyệt đối cho các tập đoàn kinh tế lớn. Có nghĩa rằng, qua các nghiên cứu từ nhiều năm, trong khi các tập đoàn lớn ngày càng lớn hơn thì các doanh nghiệp SME mãi nhỏ và ngày càng yếu hơn, đến mức một nhà kinh tế học có tiếng ở trong nước đã phải dùng từ “dặt dẹo” khi đánh giá khu vực này(2).
Như một thực tế phổ quát, ở tất cả nền kinh tế phát triển, các doanh nghiệp SME luôn luôn đóng vai trò trụ cột, không chỉ xét theo các tiêu chí số lượng hay tạo việc làm, mà quan trọng hơn là khu vực này đóng vai trò chủ đạo trong việc gia tăng sức mua và tạo lập thị trường trong nước, qua đó đóng góp vào sự tăng trưởng bền vững. Để tham khảo các mô hình kinh tế mới nổi thành công ở Đông Á, ở giai đoạn phát triển ban đầu, nếu Hàn Quốc dành sự ưu đãi cho các doanh nghiệp lớn (chaebol) nhằm tăng năng lực xuất khẩu thì ở Đài Loan, một chính sách hỗ trợ cân bằng được áp dụng cho cả hai nhóm đối tượng là doanh nghiệp lớn và SME. Tuy nhiên, điều có thể ngạc nhiên đối với Việt Nam là ngay trong bối cảnh hiện nay, khi lấy đổi mới sáng tạo về công nghệ làm cứu cánh cho năng lực cạnh tranh thì cả Hàn Quốc và Đài Loan đều chú trọng khuyến khích và hỗ trợ về chính sách cho các SME.
Theo đó, để đột phát về nhận thức và tư duy, phải chăng chúng ta nhận ra một chân lý cũng là triết lý phát triển. Đó là năng lực sáng tạo và phát triển tiềm tàng để tạo sức mạnh kinh tế cho một quốc gia không phải ở các tập đoàn doanh nghiệp lớn mà chính là từng người dân thông qua số lượng khổng lồ các SME. Do đó, bởi “hãy giúp người yếu thay vì cho kẻ mạnh”, một khi các SME còn yếu thế thì đó chính là các đối tượng có nhu cầu và địa chỉ phù hợp nhất để Nhà nước hỗ trợ.
Qua trao đổi với rất nhiều người của nhóm đối tượng SME, các khó khăn và thách thức có tính “điểm nghẽn” hàng đầu mà họ trông đợi được giải tỏa thuộc bốn vấn đề chính. Đó là khó khăn tiếp cận đất đai và vốn hóa quyền sử dụng đất; đóng thuế và các khoản tài chính bắt buộc ở mức cao; khả năng cạnh tranh bất khả thi với hàng hóa rẻ ngoại nhập tràn lan trên sân nhà và thiếu nguồn lực để nâng cấp quản trị theo các tiêu chí của thị trường chuyên nghiệp.
Các phân tích có tính gợi mở như trên nhằm trả lời câu hỏi liệu một nghị quyết mới nữa về kinh tế tư nhân có cần thiết ở thời điểm này hay không. Tác giả cho rằng điều hợp lý cần làm là trên nền tảng của nhiều nghị quyết đã ban hành và Luật Hỗ trợ doanh nghiệp SME, đồng thời thông qua đối thoại trực tiếp với từng nhóm hay cộng đồng doanh nghiệp, các chính sách liên quan sẽ được cụ thể hóa bằng các văn bản hành pháp như nghị định, thông tư hay quyết định để quy định các biện pháp hỗ trợ thiết thực đối với khu vực SME trong nước, thay cho cái gọi là phát triển kinh tế tư nhân nói chung trước đó.
(*) Thành viên NHQuang và Cộng sự, Trọng tài viên Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam
(1) Tác giả đã có bài viết “FDI và nền kinh tế vãng lai” trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn ngày 15-7-2018. Xem thêm: https://www.digitimes.com/news/a20250210PD201/apple-macbook-manufacturing-vietnam-india.html
(2) Xin tham khảo bài “Không còn cửa nào khác là thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân”,
Vietnamnet ngày 8-2-2025
LS. Nguyễn Tiến Lập (*)