Linh mục Phạm Bá Trực - đại biểu Quốc hội Khóa I, Nhà yêu nước kiên trung

Linh mục Phạm Bá Trực - đại biểu Quốc hội Khóa I, Nhà yêu nước kiên trung
9 giờ trướcBài gốc
"Chúng ta chỉ có một Tổ quốc và một nghĩa vụ chung là bảo vệ Tổ quốc ấy"
Linh mục Phạm Bá Trực sinh ngày 21/11/1898 tại làng Bạch Liên, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, trong một gia đình Công giáo thuần thành. Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, học giỏi. Lớn lên, ông được Giáo hội chọn cử sang Rome, trung tâm Công giáo của thế giới để đào tạo. Trong suốt 9 năm du học, ông đạt được thành tích hiếm có: 3 bằng tiến sĩ các ngành Triết học, Luật học và Thần học. Đây là nền tảng kiến thức đặc biệt, giúp ông có nhận thức tiến bộ, tư duy sâu sắc khi sau này tham gia các vấn đề lớn của quốc gia.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với Linh mục Phạm Bá Trực ở chiến khu Việt Bắc. Ảnh: Tư liệu
Sau khi thụ phong linh mục và trở về nước, Phạm Bá Trực đảm nhận nhiều nhiệm vụ mục vụ tại các giáo xứ. Ngay cả trong vai trò tôn giáo, ông vẫn giữ lập trường kiên quyết chống thực dân Pháp khi thể hiện quan điểm rằng: “Một dân tộc bị áp bức thì không thể có tự do tôn giáo đích thực. Chỉ khi đất nước độc lập, Giáo hội mới được tự do cống hiến cho Nhân dân”. Chính thái độ dứt khoát này khiến ông trở thành biểu tượng của tinh thần đoàn kết lương - giáo trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong cuộc Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946, được sự đồng ý của Giám mục địa phận Hà Nội Francois Chaize, linh mục Phạm Bá Trực tham gia ứng cử tại tỉnh Hà Nam và trúng cử Đại biểu Quốc hội Khóa I. Đây là khóa Quốc hội đặt nền móng cho thể chế dân chủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Những phát biểu của ông tại nghị trường luôn ngắn gọn, mạnh mẽ, hàm chứa thông điệp đoàn kết toàn dân. Trong một phiên họp năm 1946, ông đã nói: “Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng của mọi người Việt Nam, không phân biệt lương hay giáo. Chúng ta chỉ có một Tổ quốc và một nghĩa vụ chung là bảo vệ Tổ quốc ấy”. Là trí thức Công giáo cao cấp hiếm hoi trong Quốc hội thời bấy giờ, ông đã góp phần phá bỏ những rào cản, định kiến, giúp nhiều giáo dân hiểu và ủng hộ chính quyền cách mạng.
Khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ tháng 12/1946, linh mục Phạm Bá Trực đã tích cực vận động giáo dân tham gia và đóng góp cho kháng chiến. Ông tham gia các tổ chức Công giáo yêu nước, đi nhiều nơi để kêu gọi người Công giáo đứng về phía Chính phủ. Theo một bản ghi chép lưu tại Ủy ban Kháng chiến Liên khu Việt Bắc, ông từng phát biểu: “Tin vào Thiên Chúa không bao giờ đồng nghĩa với việc khuất phục trước cường quyền. Người Công giáo yêu nước phải đứng lên như mọi người Việt Nam để bảo vệ non sông”.
Cũng năm 1946, linh mục Phạm Bá Trực cùng nhiều người khác tham gia sáng lập Hội Liên Việt và được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Hội. Đến năm 1951, Mặt trận Việt Minh và Liên Việt thống nhất, linh mục được bầu làm Phó Chủ tịch Mặt trận Liên - Việt. Mặc dù bận nhiều việc trong Quốc hội, Chính phủ và Mặt trận song linh mục Phạm Bá Trực vẫn luôn chu toàn bổn phận mục vụ coi sóc giáo xứ của một vị chủ chăn.
Chính tinh thần kính Chúa, yêu nước và cuộc đời hoạt động phụng sự tận tụy cho Thiên chúa và Tổ quốc của linh mục Phạm Bá Trực đã tác động mạnh mẽ đến phong trào yêu nước của người công giáo trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Nhiều gia đình công giáo đã trở thành cơ sở cách mạng nuôi giấu cán bộ. Nhiều giáo dân tích cực tham gia kháng chiến.
nh mẫu kết hợp giữa tri thức, đức tin và lòng yêu nước
Trong những ngày tháng khó khăn của dân tộc, linh mục Phạm Bá Trực đã mang hết tâm huyết, tài lực để giúp dân, giúp nước. Trong mọi việc làm và hành động của mình, linh mục Phạm Bá Trực luôn kết hợp hài hòa giữa đạo đức bác ái theo lời Chúa dạy với truyền thống yêu nước của dân tộc theo tinh thần “kính Chúa yêu nước”; không ngừng nhấn mạnh ý nghĩa của việc đoàn kết toàn dân trong đó có đoàn kết các tôn giáo để cùng tham gia kháng chiến.
Linh mục Phạm Bá Trực đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng giao cho trọng trách thay mặt Chính phủ giải quyết nhiều vụ việc phức tạp về tôn giáo. Chính sự nhìn nhận tích cực của linh mục Phạm Bá Trực ở thời điểm lịch sử này đã thúc đẩy đoàn kết công giáo với dân tộc.
Trên cương vị Phó Trưởng Ban Thường trực Quốc hội trong kháng chiến chống Pháp, linh mục Phạm Bá Trực đại diện cho Quốc hội bên cạnh Chính phủ từ 1948 đến 1952, dự nhiều cuộc họp Hội đồng Chính phủ, Hội nghị hành chính kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì.
Lời điếu Cụ linh mục Phạm Bá Trực, Phó Trưởng ban Thường trực Quốc hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được đăng trang trọng trên trang nhất báo Nhân dân số 237 ngày 12/10/1954 bên cạnh Cáo phó và bài tường thuật về lễ tang. Trong Lời điếu linh mục Phạm Bá Trực, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá cao công lao, đức độ của vị linh mục yêu nước kháng chiến và thay mặt Nhân dân, Chính phủ hứa trước anh linh của Cụ tiếp tục phấn đấu vì sự nghiệp chung.
Cuộc đời của linh mục Phạm Bá Trực là hình mẫu kết hợp giữa tri thức, đức tin và lòng yêu nước. Ông là chứng minh cho thấy, Công giáo và tinh thần dân tộc luôn đồng hành, bổ trợ cho nhau. Ngày nay, câu chuyện về ông vẫn là minh chứng cho sức mạnh đoàn kết của cộng đồng lương giáo trong suốt lịch sử của dân tộc.
Trải qua nhiều nhiệm vụ quan trọng của Quốc hội Khóa I, rồi Chính phủ trong kháng chiến, linh mục Phạm Bá Trực mất tại Thái Nguyên ngày 5/10/1954. Hơn 70 năm đã trôi qua, lời nói và hành động yêu nước của linh mục Phạm Bá Trực vẫn còn nguyên giá trị. Đó là bài học lịch sử về lòng yêu nước không phân biệt tôn giáo, về sự gắn bó của trí thức với vận mệnh dân tộc.
TS. Trần Văn, ĐBQH Khóa XII, XIII
Nguồn Đại Biểu Nhân Dân : https://daibieunhandan.vn/linh-muc-pham-ba-truc-dai-bieu-quoc-hoi-khoa-i-nha-yeu-nuoc-kien-trung-10384444.html