Người tiêu dùng lựa chọn hàng hóa tại siêu thị AEON Mall Long Biên, Hà Nội. (Ảnh: HÀ THU)
Hàng giả "đội lốt" hàng thật nhờ mã vạch
Hàng loạt vụ sản xuất, buôn bán mỹ phẩm, bị lực lượng chức năng triệt phá gần đây cho thấy mức độ tinh vi của các đối tượng trong việc qua mặt người tiêu dùng, đó là sử dụng mã vạch thật gắn lên hàng giả để lừa khách hàng. Thí dụ, trong vụ sản xuất, bán mỹ phẩm giả tại Thanh Hóa do Công an tỉnh Thanh Hóa triệt phá trong tháng 5 vừa qua, đối tượng vi phạm đã thu mua vỏ chai mỹ phẩm chính hãng đã qua sử dụng - những sản phẩm vẫn còn mã số, mã vạch hợp lệ - sau đó chiết, rót mỹ phẩm giả vào để bán ra thị trường.
Trong vụ hơn 100 mã sản phẩm thực phẩm bảo vệ sức khỏe bị làm giả tại thị trấn Như Quỳnh (Hưng Yên) do Công an thành phố Hà Nội triệt phá, cơ sở sản xuất thực phẩm chức năng này cũng sử dụng thủ đoạn tương tự khi in bao bì giả mạo sản phẩm nước ngoài và dán mã số, mã vạch hợp lệ nhằm hợp thức hóa nguồn gốc. Thực trạng đáng lo ngại là hàng giả vẫn hiển thị thông tin truy xuất giống như hàng thật, khiến người tiêu dùng gần như không có cơ sở để phân biệt. Thực tế này đặt ra nghi vấn lớn về tính hiệu quả và mức độ an toàn của hệ thống mã số, mã vạch hiện hành.
Theo các chuyên gia, mã số, mã vạch là công cụ phổ biến toàn cầu để truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hỗ trợ kiểm soát chất lượng và ngăn chặn hàng giả. Tại Mỹ, Australia, các nước EU, mã vạch được áp dụng bắt buộc trong nhiều ngành hàng, từ dược phẩm đến thực phẩm trẻ em. Ở Việt Nam, hệ thống mã số, mã vạch đã được triển khai hơn 30 năm qua, do Ủy ban Tiêu chuẩn đo lường chất lượng quốc gia quản lý.
Tuy nhiên, thực tế, công nghệ này vẫn có thể bị sao chép, làm giả hoặc sử dụng sai mục đích rất dễ dàng. Một doanh nghiệp có thể bị “mượn” mã vạch để dán lên sản phẩm của doanh nghiệp khác mà doanh nghiệp mình không hề hay biết. Chỉ khi cơ quan chức năng đối chiếu với cơ sở dữ liệu quốc gia về sản phẩm hàng hóa (VNPC) mới phát hiện được sai phạm.
Một yếu tố đáng lo ngại khác chính là sự thay đổi hành lang pháp lý cho mã số, mã vạch. Trước đây, việc sử dụng mã số, mã vạch của nước ngoài được kiểm soát chặt chẽ, phù hợp với các quy định của Tổ chức mã số, mã vạch quốc tế (GS1), tránh trường hợp sản xuất hàng giả, hàng nhái. Nghị định 74/2018/NĐ-CP quy định tổ chức nào sử dụng mã nước ngoài thì phải được cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp hoặc được chủ sở hữu mã nước ngoài ủy quyền sử dụng, sau đó, tổ chức đó phải thông báo với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền để được xác nhận việc sử dụng mã nước ngoài.
Tuy nhiên, Nghị định 13/2022/NĐ-CP của Chính phủ đã bãi bỏ quy định này. Sau khi hủy bỏ thủ tục xác thực mã vạch nước ngoài, có rất nhiều doanh nghiệp trong nước sử dụng mã nước ngoài nhưng không biết có được ủy quyền hay không. Điều này đặt ra câu hỏi về tính phù hợp của quy định mới, khi mà hành lang pháp lý nới lỏng có thể vô tình tạo kẽ hở cho hàng giả lợi dụng để trà trộn vào thị trường.
Cần công nghệ xác thực mới
Đến nay, cả nước đã có 1,6 triệu loại sản phẩm được gắn mã số, mã vạch, đạt 80% sản phẩm có tên trên thị trường. Tất cả các sản phẩm vào siêu thị đều có mã số, mã vạch do siêu thị yêu cầu, nhằm giúp hệ thống bán hàng và kho vận nhận diện sản phẩm một cách tự động, nhanh và chính xác.
Trong bối cảnh mã số, mã vạch truyền thống hiện nay không còn đủ sức chống chọi với hàng giả, giới chuyên gia cho rằng đã đến lúc Việt Nam cần nâng cấp công nghệ xác thực. điện tử, tem chống giả thông minh là những giải pháp được đề xuất để thay thế hoặc tích hợp cùng mã vạch truyền thống.
Với công nghệ truy xuất nguồn gốc, mỗi sản phẩm sẽ có một mã định danh duy nhất, gắn liền với thông tin về lô hàng, nơi sản xuất, thời gian đóng gói… toàn bộ hành trình từ nhà máy tới tay người tiêu dùng đều được số hóa và truy cập dễ dàng qua quét mã QR. Tem chống hàng giả điện tử tích hợp cả yếu tố vật lý lẫn công nghệ số sẽ giúp nhận diện sản phẩm chính hãng, ngăn chặn hiệu quả việc sao chép mã hoặc tráo tem.
Vấn đề cốt lõi và mang tính bền vững trong cuộc chiến chống hàng giả chính là nâng cao nhận thức cho toàn xã hội. Doanh nghiệp cần chủ động bảo vệ thương hiệu bằng cách minh bạch hóa quy trình sản xuất, đăng ký mã vạch chính thống và phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng. Cơ quan quản lý cần rà soát, đánh giá tác động của quy định bỏ thủ tục xác thực mã vạch nước ngoài đối với thực trạng kiểm soát hàng giả, đồng thời, khuyến khích ứng dụng công nghệ xác thực tiên tiến trong doanh nghiệp.
THANH QUÝ