Chia sẻ với PV VietNamNet, bác sĩ Bùi Thanh Hoài, Khoa Y học cổ truyền, Bệnh viện 19-8 (Bộ Công an) cho biết, cây hẹ (nén tàu, phi tử, cửu thái) có tên khoa học là Allium odorum L., thuộc họ hành tỏi.
Trong y học cổ truyền, hẹ được sử dụng làm thuốc với toàn cây, bao gồm cả lá và rễ.
Các nghiên cứu hiện đại cho thấy, trong lá và rễ hẹ có chứa nhiều hợp chất sinh học quan trọng như các hợp chất sunfua, saponin và chất đắng. Đặc biệt, từ năm 1948, một tác giả Trung Quốc đã chiết xuất từ củ hẹ một hoạt chất có tên là odorin. Hoạt chất này ít độc đối với động vật bậc cao nhưng lại có tác dụng kháng sinh rõ rệt đối với các vi khuẩn như Staphylococcus aureus và Bacillus coli.
Cây hẹ có nhiều công dụng. Ảnh: Nguyễn Thường
Không chỉ dừng lại ở đó, Viện Nghiên cứu Cây thuốc Trung Quốc cũng công bố những nghiên cứu sơ bộ cho thấy trong hạt hẹ có chứa ancaloit và saponin - các hoạt chất thường gặp trong nhiều dược liệu có giá trị. Những phát hiện này góp phần lý giải vì sao từ lâu, hẹ đã được nhân dân sử dụng để phòng và chữa bệnh.
Năm 1961, Phòng Đông y thực nghiệm của Viện Vi trùng học báo cáo rằng nước ép tươi từ cây hẹ có tính kháng sinh rất cao đối với nhiều loại vi trùng như Staphylococcus, Salmonella typhi, E.coli… Đáng chú ý, tinh chất kháng sinh trong hẹ khá bền vững: nước cốt hẹ sau khi ly tâm bỏ cặn, lấy phần nước trong và hấp để lâu vẫn giữ được tác dụng kháng khuẩn.
Theo bác sĩ Hoài, ưu điểm nổi bật khác của hẹ là không cay nóng như tỏi, vì vậy dễ dùng hơn, đặc biệt là với trẻ em.
Tuy nhiên, bác sĩ Hoài lưu ý rằng tính chất kháng sinh của hẹ sẽ giảm nhẹ khi chịu tác dụng của pepsin trong môi trường acid mạnh và sẽ mất hoàn toàn nếu đun sôi hoặc sắc nóng. Do đó, khi dùng hẹ với mục đích kháng khuẩn cần lưu ý cách chế biến phù hợp.
Trong dân gian, lá và củ hẹ thường được dùng chữa ho ở trẻ em bằng cách hấp lá hẹ với đường hoặc đường phèn, đun cách thủy. Ngoài ra, hẹ còn được sử dụng để hỗ trợ điều trị kiết lỵ ra máu, làm thuốc bổ giúp tiêu hóa, tốt cho gan và thận, thường dùng trong các trường hợp di tinh, tiểu tiện nhiều lần. Liều dùng hằng ngày phổ biến là 20-30g.
Nước sắc hẹ cũng được dùng để chữa giun kim, còn hạt hẹ là vị thuốc quen thuộc trong các bài thuốc chữa mộng tinh, tiểu tiện ra huyết, đau mỏi đầu gối, đau lưng và khí hư. Liều dùng hạt hẹ thường từ 6-12g mỗi ngày.
“Theo các tài liệu y học cổ truyền, hẹ có vị cay ngọt, tính ôn, quy vào hai kinh can và thận. Tác dụng chính của hẹ là bổ can thận, làm ấm lưng gối, dùng trong các chứng tiểu tiện nhiều lần, đái són, mộng tinh, suy giảm chức năng thận”, bác sĩ Hoài thông tin.
Những người không nên sử dụng hẹ làm thuốc
Tuy nhiên, bác sĩ Hoài nhấn mạnh rằng không phải ai cũng nên sử dụng hẹ làm thuốc. Những người thuộc thể âm hư, hỏa vượng - thường có biểu hiện nóng trong, hay khô miệng, táo bón, bốc hỏa - không nên dùng hẹ vì tính ôn của dược liệu này có thể làm tình trạng nặng hơn.
Ngoài ra, người đang sốt cao, viêm nhiễm cấp tính nặng cũng cần thận trọng, nên tham khảo ý kiến thầy thuốc trước khi sử dụng.
N. Huyền