Giai đoạn 1997-2005 là một chương đầy ý nghĩa trong lịch sử phát triển của hai tỉnh Bình Phước và Đồng Nai. Trong khi Bình Phước nỗ lực định hình hướng đi sau tái lập, Đồng Nai đã tạo ra một cuộc bứt phá mạnh mẽ, khẳng định vị thế là một trong những cực công nghiệp hàng đầu của cả nước. Đây không chỉ là câu chuyện về hai địa phương mà còn là minh chứng rõ nét cho tinh thần “Phát huy nội lực, hội nhập quốc tế” của toàn Đảng, toàn dân, biến thách thức thành cơ hội, cùng hòa nhịp vào dòng chảy chung của đất nước.
Nửa cuối thập niên 1990, đất nước ta tiếp tục hành trình đổi mới với nhiều thời cơ và thách thức đan xen. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) khẳng định đường lối đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Việt Nam từng bước mở rộng quan hệ đối ngoại, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, song cũng phải đối diện với khủng hoảng tài chính khu vực 1997-1998. Trong bối cảnh ấy, hai tỉnh Bình Phước và Đồng Nai đã bước vào Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI với những vị trí và mục tiêu khác nhau, nhưng cùng chung khát vọng vươn lên.
Ngày 1-1-1997, Bình Phước chính thức được tái lập từ tỉnh Sông Bé. Trước mắt Đảng bộ và nhân dân là một vùng đất biên giới còn nhiều gian khó, với xuất phát điểm kinh tế thuần nông và cơ cấu lạc hậu, công nghiệp chỉ 3%. Tuy nhiên, với sự chi viện kịp thời từ Trung ương và quyết tâm sắt đá của Ban Chấp hành lâm thời Tỉnh ủy, Bình Phước đã nhanh chóng ổn định và đặt nền móng vững chắc cho tương lai
Ngay sau tái lập, ngày 12-12-1996, Bộ Chính trị công bố quyết định chỉ định Ban Chấp hành lâm thời Tỉnh ủy Bình Phước với 29 đồng chí, Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 9 đồng chí. Đồng chí Bùi Thanh Phong được Bộ Chính trị chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy; đồng chí Nguyễn Hữu Luật làm Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy; đồng chí Bùi Huy Thống làm Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh.
Để nhanh chóng ổn định và phát triển, Tỉnh ủy lâm thời đã ban hành Nghị quyết 01/NQ-TU về phương hướng, nhiệm vụ năm 1997, tập trung vào ba trọng tâm: ổn định tư tưởng và bộ máy, giữ vững an ninh quốc phòng, và củng cố đội ngũ cán bộ. Đây là những bước đi chiến lược, thể hiện sự lãnh đạo đúng đắn, biết gỡ khó từ những vấn đề cốt lõi nhất.
Từ nền tảng ấy, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Phước lần thứ VI, nhiệm kỳ 1997-2000, được xem là đại hội đầu tiên của tỉnh sau tái lập và kế thừa thứ tự từ tỉnh Sông Bé cũ, tiếp tục mở ra tầm nhìn xa hơn. Đại hội diễn ra từ ngày 20 đến 22-11-1997 với sự tham dự của 225 đại biểu, đại diện cho hơn 8.200 đảng viên toàn tỉnh. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 41 đồng chí, và đồng chí Bùi Thanh Phong tiếp tục được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
Đại hội xác định mục tiêu trọng yếu là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ (nông, lâm 57-58%; dịch vụ 34-35%; công nghiệp 8-10%). Phấn đấu đến năm 2000, GDP bình quân đầu người đạt 250-260 USD và tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt khoảng 10%.
Những con số thành tựu trong 3 năm đầu nhiệm kỳ đã chứng minh quyết định tái lập tỉnh là hoàn toàn đúng đắn:
Đây là một bước ngoặt quan trọng, chứng minh bản lĩnh và ý chí vươn lên của Đảng bộ và nhân dân Bình Phước. Từ nền tảng ấy, Bình Phước tự tin bước vào giai đoạn phát triển mới.
Cũng trong giai đoạn này, nếu như Đại hội VI của Bình Phước là bước khởi đầu để chứng minh bản lĩnh vươn lên từ gian khó, thì Đại hội VI của Đồng Nai là lời khẳng định về tinh thần “dám nghĩ, dám làm”, biến khát vọng công nghiệp hóa thành hiện thực, mở ra giai đoạn vàng son trong lịch sử phát triển tỉnh nhà.
Với chủ đề Đại hội “Đổi mới, năng động, trí tuệ, đoàn kết, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ VI (nhiệm kỳ 1996-2000) diễn ra từ ngày 2 đến ngày 4-5-1996. Tham dự Đại hội có 353 đại biểu chính thức, đại diện cho hơn 16.000 đảng viên toàn tỉnh. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành khóa VI gồm 47 ủy viên. Các chức danh chủ chốt được bầu gồm: Bí thư Tỉnh ủy Trần Thị Minh Hoàng; các Phó Bí thư: Trần Bửu Hiền và Lê Hoàng Quân.
Với khát vọng bứt phá, Đại hội VI đã đề ra mục tiêu tổng quát đầy táo bạo: Giữ gìn và tăng cường ổn định chính trị; khai thác và tận dụng mọi nguồn lực cho yêu cầu đầu tư phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với các mục tiêu chủ yếu:
- Đưa nhịp độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 16% trở lên để đến năm 2000
- GDP bình quân đầu người đạt trên 850 USD.
- Tỷ trọng công nghiệp 43,5%, dịch vụ 37% và nông nghiệp 19,5% trong cơ cấu kinh tế.
Nhiệm kỳ 1996-2000 đã chứng kiến một cuộc bứt phá ngoạn mục trên mọi mặt trận kinh tế, đồng thời các lĩnh vực giáo dục, y tế, và giải quyết việc làm cũng đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Chỉ trong 1 năm sau Đại hội, công nghiệp của Đồng Nai đã chiếm tỷ trọng 45,8% trong GDP, vượt mục tiêu nghị quyết đại hội VI đề ra. Đến cuối 1997 đã có 249 dự án được cấp giấy phép, với tổng vốn đầu tư 4,36 tỷ. Đến năm 2000, về kinh tế đã duy trì nhịp độ tăng trưởng trên 10%, trong đó công nghiệp có vốn đầu tư FDI chiếm tỷ lệ quan trọng góp phần tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp đạt mục tiêu và đúng hướng Nghị quyết 59-NQ/TU đề ra.
Đại hội VI của Đảng bộ Đồng Nai là một minh chứng sống động cho tinh thần “dám nghĩ, dám làm”. Những quyết sách táo bạo, những mục tiêu tham vọng và sự lãnh đạo tài tình của Ban Chấp hành khóa VI đã tạo nên một giai đoạn phát triển vàng son, đặt nền móng vững chắc cho vị thế của Đồng Nai ngày hôm nay.
Những năm đầu của thế kỷ XXI, đất nước ta sau 15 năm đổi mới đã cơ bản thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, mở ra một thời kỳ phát triển mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) xác định rõ chiến lược 2001-2010: tăng trưởng nhanh, bền vững, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động hội nhập quốc tế. Đây cũng là giai đoạn Việt Nam tăng tốc đàm phán gia nhập WTO, mở cửa mạnh mẽ hơn để thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời chú trọng nâng cao đời sống nhân dân. Lúc này, hai tỉnh Bình Phước và Đồng Nai đã cùng nhau bước vào Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VII (nhiệm kỳ 2000-2005), với những nhiệm vụ và mục tiêu khác nhau, nhưng cùng chung hướng về Công nghiệp hóa.
Được tái lập chưa đầy 5 năm, Bình Phước bước vào nhiệm kỳ mới với xuất phát điểm còn nhiều hạn chế. Đến nhiệm kỳ 2001-2005, tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VII, Bình Phước tiếp tục xác định mục tiêu trọng tâm là thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đại hội có sự tham dự của 298 đại biểu, đại diện cho 10.047 đảng viên. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh được bầu gồm 45 đồng chí, và đồng chí Nguyễn Hữu Luật được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.
Nhiệm vụ xuyên suốt trong nhiệm kỳ này là duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Điều này được thể hiện qua các chính sách cụ thể nhằm phát triển các vùng chuyên canh cây công nghiệp, đặc biệt là cao su và điều. Không chỉ dừng lại ở việc mở rộng diện tích mà còn tập trung vào phát triển công nghiệp chế biến nông sản. Các mục tiêu cụ thể được đặt ra là:
- Tỷ trọng công nghiệp - xây dựng tăng từ 12,42% (năm 2000) lên 18,04% (năm 2005), cho thấy sự đầu tư vào các ngành công nghiệp chế biến nông sản đã có hiệu quả.
- Xuất khẩu đạt 200 triệu USD vào năm 2005, trong đó, các sản phẩm cao su và điều chế biến là mặt hàng xuất khẩu chủ lực, góp phần quan trọng vào tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh.
Các chủ trương này đã giúp Bình Phước đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 13,97% (vượt xa mục tiêu 9,5-10%) và GDP bình quân đầu người đạt 476 USD vào năm 2005. Điều này khẳng định sự thành công trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tận dụng hiệu quả thế mạnh của cây công nghiệp để phát triển kinh tế địa phương. Đây không chỉ là thành tựu kinh tế mà còn là kết quả của sự đồng thuận, đoàn kết của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân.
Khác với Bình Phước, Đồng Nai bước vào Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ VII (nhiệm kỳ 2000-2005) trong tâm thế của một tỉnh công nghiệp trọng điểm. Đại hội được tổ chức trong 2 ngày 28 và 29-12-2000. Đây là thời điểm đất nước vừa kết thúc một thập kỷ đầy biến động và bắt đầu một giai đoạn mới với nhiều cơ hội và thách thức. Chủ đề được xác định: “Dân chủ, trí tuệ, trách nhiệm, kỷ cương, đoàn kết”, thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong việc đẩy nhanh công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Với sự tham gia của 350 đại biểu đại diện cho hơn 22.600 đảng viên, Đại hội VII đã bầu ra Ban Chấp hành gồm 47 đồng chí, đồng chí Lê Hoàng Quân được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, cùng với các Phó Bí thư Tỉnh ủy gồm: Trần Đình Thành và Võ Văn Một.
Đại hội VII đã đề ra mục tiêu tổng quát: “Khai thác hiệu quả mọi nguồn lực, nâng cao năng lực cạnh tranh để đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đây là chiến lược toàn diện, được cụ thể hóa bằng các chương trình đột phá:
- Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về “Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”. Đây là một quyết sách táo bạo, giúp cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh.
- Phát triển nông nghiệp bền vững: Với mục tiêu “nâng tỷ trọng ngành chăn nuôi lên 29% trong cơ cấu nông nghiệp” vào năm 2005, Đồng Nai đã chứng tỏ sự quan tâm đến phát triển toàn diện, không chỉ chú trọng công nghiệp.
- Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị: Tỉnh ủy đã ban hành Quy định số 612-QĐ/TU về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng bộ tỉnh, nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức và năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Kết thúc nhiệm kỳ, các chỉ tiêu kinh tế đã đạt và vượt mức đề ra.
Giai đoạn 1997-2005 là một bức tranh đối lập nhưng bổ sung lẫn nhau cho 2 tỉnh: Bình Phước dựng nền từ nông nghiệp, khẳng định thương hiệu bằng những sản phẩm như hạt điều, cao su; trong khi Đồng Nai cất cánh công nghiệp, dẫn đầu về FDI và xuất khẩu.
Điểm chung lớn nhất của cả hai tỉnh là sự lãnh đạo đúng đắn, kiên quyết và sáng tạo của Đảng bộ. Cả hai đều chọn nghị quyết đúng - trúng, có chương trình đột phá cụ thể, sát thực tiễn. Nhờ vậy, hai địa phương đã đi những bước khác nhau nhưng đều cùng tiến về phía trước, chuẩn bị cho chặng đường hội nhập sâu rộng, hướng tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.