Phần I. Tăng chi bộ kinh, Chương I: Một pháp, XXI: Phẩm thiền định
"Như một ai, này các Tỷ-kheo, với tâm biến mãn cùng khắp biển lớn, có thể bao gồm tất cả con sông bé nhỏ đổ vào biển cả, cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ai tu tập, làm cho sung mãn thân hành niệm, cũng bao gồm tất cả thiện pháp, gồm những pháp thuộc về minh phần.
Có một pháp, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến cảm hứng lớn, lợi ích lớn, an ổn lớn khỏi các khổ ách, chính niệm tỉnh giác, đưa đến chứng đắc tri kiến, đưa đến hiện tại lạc trú, đưa đến chứng ngộ quả minh và giải thoát. Một pháp ấy là gì? Chính là thân hành niệm. Đây là một pháp, này các Tỷ-kheo, tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến cảm hứng lớn..., đưa đến chứng ngộ quả minh và giải thoát.
Có một pháp, này các Tỷ-kheo, khi được tu tập, được làm cho sung mãn, thân được khinh an, tâm được khinh an, tầm tứ được tịnh chỉ, toàn bộ các pháp thuộc về minh phần đi đến tu tập, làm cho viên mãn. Một pháp ấy là gì? Chính là thân hành niệm. Khi tu tập, làm cho sung mãn một pháp này, thân được khinh an, tâm được khinh an, tầm và tứ được tịnh chỉ, toàn bộ các pháp thuộc về minh phần đi đến tu tập, làm cho viên mãn.
Có một pháp, này các Tỷ-kheo, khi được tu tập, được làm cho sung mãn, các pháp bất thiện chưa sinh không sinh khởi, và các pháp bất thiện đã sinh bị đoạn tận. Một pháp ấy là gì? Chính là thân hành niệm. Khi tu tập, khi làm cho sung mãn một pháp này, các pháp bất thiện chưa sinh không sinh khởi, các pháp bất thiện đã sinh bị đoạn tận.
Có một pháp, này các Tỷ-kheo, khi được tu tập, được làm cho sung mãn, các pháp thiện chưa sinh được sinh khởi, và các pháp thiện đã sinh đưa đến tăng trưởng, quảng đại. Một pháp ấy là gì? Chính là thân hành niệm. Khi tu tập, khi làm cho sung mãn một pháp này, này các Tỷ-kheo, các pháp thiện chưa sinh...đưa đến tăng trưởng, quảng đại.
Có một pháp, này các Tỷ-kheo, khi được tu tập, được làm cho sung mãn, vô minh được đoạn tận, minh sinh khởi, ngã mạn được đoạn tận, các tùy miên được nhổ sạch, các kiết sử bị đoạn tận. Một pháp ấy là gì? Chính là thân hành niệm. Khi một pháp này được tu tập, được làm cho sung mãn, vô minh bị đoạn tận... các kiết sử bị đoạn tận.
Có một pháp, này các Tỷ-kheo, khi được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến sự phân tích của trí tuệ, đưa đến Niết-bàn không có chấp thủ. Một pháp ấy là gì? Chính là thân hành niệm. Khi một pháp này được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến sự phân tích ... không có chấp thủ.
Có một pháp, này các Tỷ-kheo, khi được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến sự thông đạt của nhiều giới, sự thông đạt của nhiều giới sai biệt, sự vô ngại giải của nhiều giới. Một pháp ấy là gì? Chính là thân hành niệm. Khi một pháp này được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến sự thông đạt ... sự vô ngại giải của nhiều giới.
Có một pháp, này các Tỷ-kheo, khi được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến sự chứng ngộ quả Dự lưu, đưa đến sự chứng ngộ quả Nhất lai, đưa đến sự chứng ngộ quả Bất lai, đưa đến sự chứng ngộ quả A-la-hán. Một pháp ấy là gì? Chính là thân hành niệm. Khi một pháp này được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến sự chứng ngộ quả Dự lưu,.... quả A-la-hán.
Có một pháp, này các Tỷ-Kheo, khi được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến sự chứng đắc trí tuệ, đưa đến sự tăng trưởng trí tuệ, đưa đến quảng đại trí tuệ, đưa đến đại trí tuệ, đưa đến trí tuệ rộng rãi, đưa đến thâm sâu trí tuệ, đưa đến vô song trí tuệ, đưa đến vô hạn trí tuệ, đưa đến nhiều trí tuệ, đưa đến trí tuệ nhanh lẹ, đưa đến trí tuệ nhẹ nhàng, đưa đến trí tuệ hoan hỉ, đưa đến trí tuệ tốc hành, đưa đến trí tuệ sắc sảo, đưa đến trí tuệ thể nhập. Một pháp ấy là gì? Chính là thân hành niệm. Khi một pháp này được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến sự chứng đắc trí tuệ,... đưa đến trí tuệ thể nhập.
Những vị này không hưởng được bất tử, này các Tỷ-kheo, là những vị không thực hiện thân hành niệm. Những vị này hưởng được bất tử, này các Tỷ-kheo, là những vị thực hành thân hành niệm. Những vị này không chia sẻ bất tử, này các Tỷ-kheo, là những vị không chia sẻ thân hành niệm. Những vị này chia sẻ bất tử, này các Tỷ-kheo, là những vị chia sẻ thân hành niệm.
Bất tử bị đoạn tận, này các Tỷ-kheo, đối với những ai đoạn tận thân hành niệm. Bất tử không bị đoạn tận, này các Tỷ-kheo, đối với những ai không đoạn tận thân hành niệm.
Bất tử bị khiếm khuyết, này các Tỷ-kheo, đối với những ai khiếm khuyết thân hành niệm. Bất tử được viên thành, này các Tỷ-kheo, đối với những ai viên thành thân hành niệm.
Bất tử bị xao lãng bỏ phế, này các Tỷ-kheo, đối với những ai bỏ phế thân hành niệm. Bất tử không bị bỏ phế, này các Tỷ-kheo, đối với những ai không bỏ phế thân hành niệm.
Bất tử bị vong thất, này các Tỷ-kheo, đối với những ai vong thất thân hành niệm. Bất tử không bị vong thất, này các Tỷ-kheo, đối với những ai không vong thất thân hành niệm.
Bất tử không được thực hiện, này các Tỷ-kheo, đối với những ai không thực hiện thân hành niệm. Bất tử được thực hiện, này các Tỷ-kheo, đối với những ai thực hiện thân hành niệm.
Bất tử không được tu tập, này các Tỷ-kheo, đối với những ai không tu tập thân hành niệm. Bất tử được tu tập, này các Tỷ-kheo, đối với những ai tu tập thân hành niệm.
Bất tử không được làm cho sung mãn, này các Tỷ-kheo, đối với những ai không làm cho sung mãn thân hành niệm. Bất tử được làm cho sung mãn, này các Tỷ-kheo, đối với những ai làm cho sung mãn thân hành niệm.
Bất tử không được thắng tri, này các Tỷ-kheo, đối với những ai không thắng tri thân hành niệm. Bất tử được thắng tri, này các Tỷ-kheo, đối với những ai thắng tri thân hành niệm.
Bất tử không được liễu tri, này các Tỷ-kheo, đối với những ai không liễu tri thân hành niệm. Bất tử được liễu tri, này các Tỷ-kheo, đối với những ai liễu tri thân hành niệm.
Bất tử không được chứng ngộ, này các Tỷ-kheo, đối với những ai không chứng ngộ thân hành niệm. Bất tử được chứng ngộ, này các Tỷ-kheo, đối với những ai chứng ngộ thân hành niệm."
Ảnh minh họa thiết kế bởi AI - Tạp chí Nghiên cứu Phật học
Phần II. Giải thích một vài khái niệm
1. Thân hành niệm
Thân hành tức là sự vận hành, chuyển biến liên tục nơi thân. Thân hành gồm có: thân nội hành và thân ngoại hành. Chúng ta hiểu cơ bản rằng thân nội hành là những dòng chảy diễn ra liên tục trong ý của mình, bên trong cơ thể mình và thân ngoại hành là những thứ xúc chạm bên ngoài, cử động bên ngoài của mình.
Niệm là quán sát, có chính niệm về sự vận hành nơi thân mà không níu giữ cảm giác đã qua hay phóng vọng tưởng về thứ chưa xảy tới.
Như vậy, Thân hành niệm có thể hiểu là sự ghi nhận trực tiếp, rõ ràng và liên tục đối với các hoạt động, chuyển động, cảm giác và trạng thái của thân, ngay trong khoảnh khắc chúng đang xảy ra, như một cơn gió thổi qua, ta biết ngay là gió thổi qua, nhưng khi không còn gió nữa, chân ta dẫm phải viên sỏi, ta biết là chân dẫm viên sỏi, ý khởi lên sự bực ta, ta ghi nhận được điều đó,… mà không thêm giải thích, không phán xét, không xen vào ý tưởng.
“Thân hành” gồm tất cả các tác động của thân thể:
Hơi thở (ra – vào)
Bốn oai nghi (đi – đứng – nằm – ngồi)
Các động tác vi tế (co – duỗi – bước – quay – nhìn – nhai – uống – mặc)
Tứ đại nơi thân (đất – nước – gió – lửa), tức toàn bộ thân thể.
...
Thấy “thân chỉ là thân” tức để chúng ta ghi nhận sự vận hành, ở đúng thực tại đang xảy ra, không đồng hóa bản ngã, không xem thân là “tôi”, “của tôi”, “là tự ngã của tôi”, mà chỉ thấy các hành diễn ra tại nơi thân. Các hành ấy nó đến và lập tức nó đi, chỉ có ý chấp ngã của ta là nắm giữ, còn nếu ý không chấp nữa, ta sẽ liên tục ghi nhận được hành nơi thân. Đó gọi là quán thân trên thân.
2. Khinh an
Khinh an là trạng thái cơ thể nhẹ nhàng. Khinh an hay được gắn liền theo yếu tố thiền định, khi đạt được một tầng sâu cụ thể thì tâm cảm thấy nhẹ nhàng, khoan khoái. Nhưng thực chất, khinh an không dành riêng cho việc thiền định.
Khinh an là có thể diễn ra bất kì lúc nào, trong tư thế nào của con người, dùng để nói tới trạng thái thân hay tâm không bị đè nén, nặng gánh bởi điều gì, chúng được giải phóng khiến tâm trí nhẹ bẫng, thư thái, giống như một người đang gánh hàng nặng, đặt xuống thì thân sẽ nhẹ nhàng, tâm đang bồn chồn thì được giải tỏa lo âu, tâm được thư thái.
3. Tầm tứ được tịnh chỉ
Tầm trong từ tầm cầu, tức là đi tìm, truy tìm một điều gì đó, hay một ý niệm nào đó.
Tứ là thẩm sát, phân tích. Tầm tứ hay được đi chung với nhau để diễn tả sự loạn động của tâm, khi cố đi tìm và thẩm sát điều gì, ý niệm gì.
Để dễ hiểu thì chúng ta hình dung rằng, “tầm” giống như ta đang đi chợ, muốn mua cam, và ta phải đi tìm hàng bán cam. Khi thấy hàng cam rồi, ta chọn những quả ngon theo quan điểm của ta, thì hành vi lựa chọn, phân tích đó là “tứ”.
Tịnh chỉ là chỉ định dừng lại, và làm cho đầu óc được an tịnh. Thực hành thân hành niệm là thay vì ta để đầu óc lăng xăng, thì ta tịnh chỉ, làm dừng lại, dòng chảy suy nghĩ liên tục của ta.
4. Kiết sử
Kiết sử (còn gọi là mười kiết sử) là mười phiền não căn bản trong Phật giáo, trói buộc chúng sinh vào vòng sinh tử luân hồi, gây ra đau khổ. Chúng được chia thành hai nhóm: năm hạ phần kiết sử (tham, sân, si, mạn, nghi) và năm thượng phần kiết sử (thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tà kiến).
Chúng ta tạm hiểu ngắn gọn như sau:
(1). Tham: Lòng mong muốn nhiều hơn, tham lam.
(2). Sân: Giận dữ, bực tức.
(3). Si: Mê mờ, si ám.
(4). Mạn: Kiêu căng tự tôn.
(5). Nghi: Hoài nghi về bản thân, người khác hoặc giáo pháp.
(6). Thân kiến: Chấp thân này là ta, là của ta, là thứ cao quý hơn cả.
(7). Biên kiến: Chấp một quan điểm cực đoan, chấp một phía cực đoan, cụ thể ở đây là thường hằng hoặc đoạn diệt.
(8). Kiến thủ: Chấp chặt vào cái thấy cá nhân mà không chịu lắng nghe.
(9). Giới cấm thủ: Chấp chặt vào những giới cấm phi lý, không mang lại lợi ích, hoặc chấp giới luật cực đoan mà không hiểu mục đích, sử dụng sai bối cảnh.
(10). Tà kiến: Những nhận thức sai lầm, trái với chính kiến Tứ Thánh đế.
Phần III. Luận giải đoạn kinh
Thân hành niệm là pháp có khả năng bao gồm tất cả thiện pháp, làm viên mãn minh phần, đoạn tận vô minh và mở ra mọi tầng bậc của Thánh đạo.
1. Thân hành niệm như biển lớn.
Việc thành tựu quán niệm thân hành dung chứa mọi thiện pháp. Biển lớn dung chứa tất cả các dòng sông. Ẩn dụ này chuyển tải ý nghĩa rằng mọi thiện pháp dù vi tế hay dễ thực hiện đều có thể được gom về và hoàn thiện nơi việc tu tập chính niệm quán thân trên thân.
Thân, mọi hành vi diễn ra, tạo tác từ nơi thân chính là thứ tạo tác ra nghiệp lực. Bởi vậy, chính niệm trên thân là cơ sở để hướng tới mọi quả lành. Khi quán thân đúng pháp, tâm được neo lại vào thực tại; vọng niệm không còn điều kiện để sinh khởi
2. Pháp đưa đến hỷ và hiện tại lạc trú
Kinh văn liệt kê rằng thân hành niệm đưa đến cảm hứng lớn, lợi ích lớn, an ổn lớn khỏi các khổ ách. Đó không phải trạng thái phấn khởi do tưởng tượng, mà là hỷ và an sinh khởi từ sự xả, không cuốn theo vọng niệm.
Khi hành giả ghi nhận thân với hơi thở ra vào, với những cảm giác thay đổi, với các oai nghi co – duỗi – đứng – nằm,… tất cả hành vi, suy nghĩ nơi thân của mình một cách chân thực, không xen vào phán xét, không tìm kiếm điều gì, thân trở nên khinh an, tâm trở nên nhẹ nhàng. Khinh an ở đây vừa là dấu hiệu của định sinh, vừa là kết quả trực tiếp của việc dừng lại vòng xoáy tìm kiếm và thẩm sát (tầm tứ). Khi tầm tứ được tịnh chỉ, tâm ung dung an trú trong hiện tại, mở ra hiện tại lạc trú, một trạng thái an nhiên không phụ thuộc vào hoàn cảnh.
3. Diệt bất thiện, tăng trưởng thiện pháp
Công năng đạo đức của pháp quán thân trên thân chính là giúp thành tựu Tứ chính cần, gồm có:
(1). Các pháp bất thiện chưa sinh thì không sinh
(2). Các pháp bất thiện đã sinh thì đoạn tận
(3). Các pháp thiện chưa sinh thì phát sinh
(4). Các pháp thiện đã sinh thì quảng đại tăng trưởng.
4. Đoạn tận vô minh và nhổ sạch kiết sử
Thứ nhất, thân là nơi vô minh bám chặt nhất. Ta chấp thân là “ta”, “của ta”, “tự ngã của ta”. Mọi hành vi chấp thủ đều khởi lên từ nhận lầm thân là một thực thể bất biến, thuộc sự sở hữu của cái bản ngả nào đó. Khi thấy rõ thân chỉ là tiến trình của tứ đại và các thân hành sinh diệt liên tục, gốc rễ của vô minh bị lay chuyển tận nền tảng.
Thứ hai, kiết sử vốn là các dây trói buộc tâm theo vòng luân hồi dựa vào chấp ngã mà duy trì. Quán thân như thật là cách trực tiếp nhất để thấu triệt sự vô thường, vô ngã.
5. Khai mở trí tuệ và lộ trình đến Bốn Thánh quả
Một trong những đặc tính đặc biệt được nêu trong kinh là người tu tập thân hành niệm sẽ đạt được nhiều giới phân biệt, nhiều giới sai biệt, đồng thời đạt vô ngại giải. Điều này không nói về khả năng biện luận, mà nói đến sự trực nhận các pháp trong bản chất của chúng. Trí tuệ hiểu về sự khác nhau của các “loại giới”, hiểu mục đích giới, hiểu tại sao có giới và cách sử dụng giới.
Vô ngại giải tức là khi trí tuệ thành tựu, hành giả có thể giải nghĩa mọi thứ về giới mà không vướng mắc, không tự gây mâu thuẫn, không vòng vo.
Thân hành niệm đưa đến chứng ngộ các quả vị: Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, và A-la-hán. Bốn Thánh quả đòi hỏi sự đoạn trừ dần các kiết sử và trưởng dưỡng tuệ giác về vô thường, khổ, vô ngã.
Phần cuối của kinh dùng một cấu trúc lặp mạnh mẽ:
Những ai không thực hành thân hành niệm thì không đạt bất tử; những ai tu tập, làm cho sung mãn, không bỏ phế, không khiếm khuyết pháp này thì thành tựu bất tử. “Bất tử” không phải sự vĩnh sinh của thân xác, mà là trạng thái không còn tái sinh, trạng thái của Niết-bàn. Như trong toàn bộ kinh Tương ưng, kinh nhấn mạnh rất nhiều về ý niệm: Phạm hạnh đã thành, việc phải làm đã làm, không còn trở lui lại trạng thái này nữa.
Hành giả đạt “bất tử” khi thấy rõ sự tan hoại của thân chỉ là tiến trình tự nhiên, không có thực thể trường tồn để bám víu. Chính ở nơi thân, nơi vô thường biểu hiện rõ rệt, tầng tri thức cao hơn được đạt tới.
Kết luận
Thân Hành Niệm là một pháp môn mà chúng ta cần phải nghiên cứu kĩ lưỡng, vì nó là một pháp môn quan trọng trong đời sống tu hành của chúng ta.
Không phân biệt cho bất kì ai, không nhất thiết phải trong bất kì tư thế nào, việc quán thân trên thân không phải một pháp môn của riêng hành giả trong rừng núi, mà là phương tiện thiết thực có giá trị cho tất cả mọi người ngay trong đời sống hiện tại.
Khi ta biết ghi nhận và xả bỏ để cảm nhận hơi thở, bước chân,... hay bất kì chuyển động nào đang diễn ra thực tế nơi thân, tâm được giải phóng khỏi sự chi phối của vọng tưởng; lo âu và căng thẳng theo đó mà lắng dịu. Thân hành niệm giúp ta thấy rõ những phản ứng của thân tâm, từ đó biết chăm sóc bản thân bằng sự tỉnh thức. Sự nhẹ nhàng trong thân trở thành sự an tịnh trong tâm, sự an tịnh ấy nuôi dưỡng trí tuệ, tình thương, cũng như khả năng ứng xử hài hòa trong mọi hoàn cảnh.
Cư sĩ Phúc Quang
Tài liệu: Tăng chi bộ kinh, Chương I: Một pháp, XXI: Phẩm thiền định, Dịch giả: Hòa thượng Thích Minh Châu.