Quy trình canh tác lúa phát thải thấp sửa đổi cho phép vùi rơm lại đồng ruộng. Trong ảnh là rơm được xử lý thành phân bón sau khi đưa ra khỏi ruộng theo quy trình cũ. Ảnh: Trung Chánh
Đề án 1 triệu héc ta lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đã xác định được hơn 942.000 héc ta vùng chuyên canh, thu hút 1.230 hợp tác xã và 210 doanh nghiệp tham gia. Tuy nhiên, ngành nông nghiệp mới đây đã tính lại “quy trình kỹ thuật sản xuất lúa chất lượng cao và phát thải thấp vùng ĐBSCL”.
Điều chỉnh quy trình, cho phép vùi rơm lại đồng ruộng
Ông Tô Văn Huấn, Chuyên viên cao cấp của Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho biết sau hơn một năm áp dụng quy trình trên các mô hình thí điểm đã bộc lộ một số khó khăn, chưa phù hợp với thực tiễn nên cần phải sửa đổi, bổ sung.
Theo đó, một trong những nội dung sửa đổi quan trọng được chính các địa phương triển khai đề án lúa phát thải thấp có ý kiến, đó là cho phép vùi rơm lại đồng ruộng thay vì thu gom đưa ra khỏi đồng ruộng, nhất là ở vụ Hè thu và Thu đông bị ngập nước do mưa.
Ông Huấn, cho biết đã đề xuất trong điều kiện mưa ngập không sử dụng máy móc để thu gom rơm đưa ra khỏi đồng ruộng có thể cày vùi xuống đất. “Tuy nhiên, trước khi cày vùi và xử lý bằng chế phẩm vi sinh thì ruộng phải được rút nước”, ông cho biết và lý giải việc điều chỉnh này để đảm bảo thực tế sản xuất cũng như giải quyết khó khăn trong việc thu gom rơm như thời gian qua.
Tuy nhiên, với rơm khô, có chất lượng phù hợp (ở vụ Đông xuân) có thể sử dụng để trồng nấm, làm thức ăn cho gia súc hay sử dụng làm nguyên liệu cho điện sinh khối. “Đây cũng là cơ hội và tiềm năng rất lớn, nhất là khi ĐBSCL có 20 triệu tấn rơm/năm, giúp tăng thu nhập từ rơm”, ông Huấn cho biết.
Một trong những thay đổi đáng chú ý khác, đó là vấn đề quản lý nước trong quá trình canh tác của đề án 1 triệu héc ta. Trong đó, quy trình cũ quy định không để ruộng ngập nước trước khi làm đất gieo sạ 30 ngày liên tục, thì được điều chỉnh giảm xuống còn 10-15 ngày. Bởi lẽ, với những vùng sản xuất 3 vụ/năm, khi áp dụng quy trình cũ sẽ không khả thi.
Trong khi đó, với phần quản lý nước gieo sạ hoặc cấy, quy trình mới chỉ đưa ra quy định rút nước thành công ít nhất 2 lần/vụ. Thời điểm rút nước sau khi bón thúc các đợt 5 đến 7 ngày (tùy điều kiện thời tiết) và mỗi lần rút nước kéo dài ít nhất 4 ngày khi mặt ruộng nứt chân chim hoặc mực nước âm 10-15 cm so với mặt ruộng; rút nước trước thu hoạch 7 đến 15 ngày.
Theo ông Huấn, với trường hợp vùng đất ngập nước, không có điều kiện rút nước 2 lần/vụ, cần rút giữa vụ 1 lần với thời điểm rút nước rơi vào khoảng ngày 28 đến 50 trong chu kỳ sinh trưởng của cây lúa (tùy điều kiện đất, sinh thái khác nhau) với thời gian rút nước ít nhất 3 ngày liên tục; rút nước trước thu hoạch 7 đến 15 ngày.
Ngoài những nội dung nêu trên, quy trình mới cũng có những điều chỉnh liên quan đến bón phân, gieo sạ, thu hoạch, bảo quản…
Trước đó, để có cơ sở triển khai đề án 1 triệu héc ta lúa chất lượng cao, phát thải thấp, thông qua quy trình cũ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường và các địa phương/đơn vị liên quan cũng đã triển khai thí điểm nhiều mô hình để đánh giá mức độ giảm phát thải và hiệu quả kinh tế mang lại.
Chẳng hạn, tại mô hình được triển khai ở thành phố Cần Thơ, ông Nguyễn Văn Hùng, Chuyên gia cao cấp của Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế (IRRI), cho biết về năng suất, mô hình thí điểm đạt từ 6,13-6,51 tấn/héc ta, tùy áp dụng kỹ thuật sạ hàng không vùi phân, sạ hàng đều có vùi phân hoặc sạ hàng biên có vùi phân. Trong khi ruộng đối chứng năng suất 5,89 tấn/héc ta, tức mô hình thí điểm cho năng suất cao hơn từ 0,24-0,62 tấn/héc ta.
Đối với hiệu quả kinh tế, do giảm chi phí đầu tư trong khi năng suất tăng nên nông dân tham gia mô hình tăng lợi nhuận từ 1,3-6,2 triệu đồng/héc ta, tương đương lợi nhuận tăng thêm khoảng 50-280 đô la Mỹ/héc ta.
Trong khi đó, về phát thải khí nhà kính, áp dụng quy trình canh tác của đề án 1 triệu héc ta kết hợp di chuyển rơm ra khỏi đồng ruộng cho kết quả lượng phát thải là 2 tấn CO₂ tương đương (CO₂-e)/héc ta. Còn đối với nông dân sản xuất theo phương pháp ngập liên tục kết hợp đốt rơm, thì phát thải khoảng 5 tấn CO₂-e/héc ta; sản xuất ngập liên tục kết hợp vùi rơm, lượng phát thải là 15 tấn CO₂-e/héc ta. Còn áp dụng quy trình canh tác của đề án 1 triệu héc ta nhưng vùi rơm, thì lượng phát thải khoảng 8 tấn CO₂-e/héc ta.
Kết quả nêu trên cho thấy, việc tuân thủ quy trình của đề án 1 triệu héc ta (quy trình cũ) kết hợp đưa rơm ra khỏi đồng ruộng mang lại hiệu quả cao nhất về môi trường, tức lượng phát thải là thấp nhất. Vậy, với những điều chỉnh nêu trên về quy trình canh tác của đề án 1 triệu héc ta lúa chất lượng cao, kết quả thực tế ra sao dĩ nhiên cần phải có sự đánh giá lại…
Ra mắt công cụ xác định phát thải trên cây lúa. Trong ảnh là hoạt động lắp đặt thiết bị giám sát mực nước trên ruộng lúa. Ảnh: Trung Chánh
Sáu bước xác định phát thải- đưa cây lúa vào thị trường carbon
Song song việc chỉnh sửa quy trình, Viện Môi trường Nông nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã ban hành quy trình đo đạc, báo cáo, thẩm định (MRV – Measurement, Reporting and Verification) trong canh tác lúa chất lượng cao, phát thải thấp. Đây là bộ công cụ quan trọng thực hiện cam kết giảm phát thải của Việt Nam trong canh tác lúa và cũng là cơ sở tham gia thị trường tín chỉ carbon trong tương lai.
Bà Bùi Thị Phương Loan, đến từ Viện Môi trường Nông nghiệp- đơn vị được giao nhiệm vụ triển khai MRV trên cây lúa, cho biết quy trình có sáu bước, trong đó, đầu tiên là chuẩn bị, xây dựng công cụ, mẫu biểu, hệ thống dữ liệu, lập kế hoạch MRV hằng năm, rà soát MRV theo mùa vụ…
Bước thứ hai là đăng ký, trong đó, các hợp tác xã và doanh nghiệp sẽ điền các bảng đăng ký, kiểm tra tính hợp lệ và hoàn thiện bảng đăng ký vào hệ thống quản lý dữ liệu MRV nhằm xác nhận đủ điều kiện tham gia chương trình carbon.
Bước ba là thiết lập đường cơ sở cho diện tích đã đăng ký, gồm lập bản đồ diện tích các thửa ruộng, xác định năm cơ sở và phương pháp thu thập số liệu thực tế, thu thập và nhập số liệu cơ sở, kiểm tra và đối chiếu diện tích các thửa ruộng cơ sở.
Bước bốn là giám sát, lựa chọn diện tích thửa ruộng để đặt điểm giám sát, gồm hoạt động rút nước thông qua chụp ảnh mặt ruộng ở giai đoạn rút nước trong vụ; điều tra thu thập số liệu cuối vụ.
Theo bà Loan, trước mỗi vụ, các hợp tác xã và doanh nghiệp đã đăng ký phải xác nhận sự tham gia vào mùa vụ tiếp theo để quyết định số lượng diện tích và vị trí cần giám sát. “Giám sát thực hiện các hoạt động giảm thiểu nhằm đảm bảo chất lượng dữ liệu, tính toán lượng khí thải và lượng khí thải của dự án. Lượng phát thải CH₄ từ canh tác lúa được tính bằng cách sử dụng phương pháp IPCC 2006, phiên bản cập nhật năm 2019 (hướng dẫn kiểm kê quốc gia khí nhà kính phiên bản cập nhật 2019) với hệ số phát thải đặc trưng quốc gia đã được xác định thông qua quá trình đo đạc trực tiếp trên đồng ruộng và tính toán sau đó", bà Loan cho biết.
Bước năm là báo cáo, ở bước này hợp tác xã, cán bộ khuyến nông cấp xã sẽ gửi dữ liệu giám sát lên hệ thống MRV để tổng hợp thành báo cáo theo mùa vụ và hằng năm. Trong khi đó, MRV ở cấp trung ương sẽ tổng hợp, biên soạn và công bố báo cáo giám sát. Đây cũng là căn cứ để đánh giá hiệu quả giảm phát thải.
Bước cuối cùng là xác minh, ở giai đoạn này, MRV trong nước sẽ cung cấp hồ sơ cho đơn vị xác minh (độc lập) để đánh giá nhằm bảo đảm độ tin cậy, minh bạch của kết quả giảm phát thải trong hoạt động sản xuất lúa của đề án 1 triệu héc ta.
Theo đó, thông qua việc kiểm tra hồ sơ, dữ liệu MRV và khảo sát thực địa, đơn vị kiểm tra độc lập sẽ đánh giá và phát hành báo cáo xác minh. Đây là cơ sở để cấp tín chỉ carbon và báo cáo cam kết của mỗi quốc gia trong việc ứng phó biến đổi khí hậu.
Khi lúa chất lượng cao, phát thải thấp được cấp tín chỉ carbon, thì đây cũng là cơ sở để Việt Nam tiến hành giao dịch trên thị trường tín chỉ carbon trong tương lai…
Mới đây, ông Lê Quang Mạnh, Tổng thư ký Quốc hội, khi trình bày báo cáo giám sát việc thực hiện Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã đưa ra mục tiêu vận hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon vào cuối năm 2026.
Trung Chánh