Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh điều hành phiên họp. Ảnh: Hồ Long
Tổng vốn toàn giai đoạn 2026 - 2035 dự kiến là 125.478 tỷ đồng
Trình bày tóm tắt Tờ trình về Chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026 - 2035, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan nêu rõ, đối tượng thụ hưởng của Chương trình là toàn bộ người dân Việt Nam. Trong đó ưu tiên các đối tượng: người sống ở khu vực khó khăn, miền núi, biên giới, biển đảo; người yếu thế; bà mẹ, trẻ em; thanh thiếu niên; các cặp vợ chồng, cá nhân trong độ tuổi sinh đẻ; người có công với cách mạng; người cao tuổi; người di cư, lao động ở các khu công nghiệp.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh điều hành phiên họp. Ảnh: Hồ Long
Chương trình được thực hiện trên các tỉnh/thành phố trong cả nước, ưu tiên khu vực khó khăn, miền núi, biên giới, biển đảo. Thời gian thực hiện là 10 năm, từ năm 2026 đến hết năm 2035, chia thành 2 giai đoạn: 2026 - 2030 và 2031 - 2035.
Tổng vốn thực hiện chương trình giai đoạn 2026 - 2030 là 88.635 tỷ đồng, bao gồm: vốn ngân sách Trung ương là 68.000 tỷ đồng, vốn ngân sách địa phương là 20.041 tỷ đồng, vốn huy động hợp pháp khác dự kiến 594 tỷ đồng.
Tổng vốn giai đoạn 2031-2035 dự kiến: 36.843 tỷ đồng; tổng vốn toàn giai đoạn 2026 - 2035 là 125.478 tỷ đồng.
Bộ trưởng cho biết, mục tiêu của Chương trình là nâng cao sức khỏe thể chất, tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của Nhân dân; bảo đảm mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe ban đầu chất lượng, người dân chủ động tự chăm sóc và nâng cao sức khỏe; hạn chế bệnh tật, được phòng bệnh từ sớm, từ xa, ngay tại cơ sở; giải quyết các vấn đề dân số ưu tiên, chủ động thích ứng với già hóa, nâng cao chất lượng dân số; tăng cường chăm sóc cho các nhóm yếu thế góp phần xây dựng một nước Việt Nam khỏe mạnh, thịnh vượng trong kỷ nguyên mới.
Chương trình đặt ra một số mục tiêu cụ thể như: tỷ lệ người dân được lập sổ sức khỏe điện tử và quản lý sức khỏe theo vòng đời đến năm 2030 đạt 100% và duy trì đến năm 2035; tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi đến năm 2030 giảm xuống dưới 15% và đến năm 2035 giảm xuống dưới 13%; tỷ suất sinh thô đến năm 2030 tăng thêm 0,5‰ so với năm 2025 và đến năm 2035 tăng thêm 0,5‰ so với năm 2030.
Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan trình bày tóm tắt Tờ trình về Chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026 - 2035. Ảnh: Hồ Long
Chương trình chia làm 5 Dự án thành phần.
Cụ thể, Dự án 1: Nâng cao năng lực mạng lưới y tế cơ sở; Dự án 2: Nâng cao hiệu quả hệ thống phòng bệnh và nâng cao sức khỏe; Dự án 3: Dân số và phát triển; Dự án 4: Nâng cao chất lượng chăm sóc xã hội cho người yếu thế; Dự án 5: Truyền thông y tế, quản lý, theo dõi và giám sát thực hiện Chương trình.
Nghiên cứu bổ sung dự án phát huy thế mạnh của y học cổ truyền, dược liệu
Trình bày tóm tắt Báo cáo thẩm tra nội dung này, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Nguyễn Đắc Vinh nêu rõ, Ủy ban cơ bản tán thành với tên gọi, đối tượng thụ hưởng, tổng mức đầu tư giai đoạn 2026 - 2035, mục tiêu và các dự án thành phần của Chương trình theo đề xuất của Chính phủ.
Tuy nhiên, đề nghị nghiên cứu bổ sung đối tượng ưu tiên là người khuyết tật; đồng thời, chỉnh lý quy định về đối tượng ưu tiên theo hướng để Chính phủ quy định chi tiết bảo đảm thể chế hóa đầy đủ theo tinh thần Nghị quyết số 72-NQ/TW và thuận tiện trong triển khai thực hiện.
Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Nguyễn Đắc Vinh trình bày tóm tắt Báo cáo thẩm tra. Ảnh: Hồ Long
Về tổng vốn thực hiện Chương trình, Ủy ban Văn hóa và Xã hội đề nghị, Chính phủ xác định rõ nguồn vốn, bảo đảm bố trí đủ nguồn vốn tối thiểu; bảo đảm cân đối vốn hợp lý trong thực hiện 2 mục tiêu quan trọng của Chương trình là chăm sóc sức khỏe và dân số và phát triển (mức đầu tư cho các nội dung về dân số và phát triển dự kiến chỉ chiếm 15,5% so với tổng mức đầu tư giai đoạn 2026 - 2030).
Đồng thời, đánh giá sát khả năng huy động nguồn vốn ngân sách địa phương và tính toán đề xuất mức bố trí vốn ngân sách địa phương phù hợp hơn với tình hình thực tiễn, nhất là với địa phương khó khăn trong bố trí vốn đối ứng; tiếp tục đánh giá, có giải pháp huy động các nguồn lực xã hội hóa, giảm áp lực cho ngân sách nhà nước, thể chế hóa yêu cầu của Kết luận số 149-KL/TW và Nghị quyết số 72-NQ/TW của Bộ Chính trị; rà soát, không bố trí vốn các nội dung hoạt động tại các tiểu dự án đã được bảo đảm bằng nguồn kinh phí thường xuyên.
Ủy ban Văn hóa và Xã hội cũng đề nghị rà soát, các dự án cần lựa chọn những nội dung cốt lõi, quan trọng, tránh dàn trải, lãng phí nguồn lực. Các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của các tiểu dự án phải bảo đảm thống nhất giữa mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể và nội dung hoạt động, có các chỉ số cụ thể, dễ kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện. Tiếp tục xem xét nghiên cứu bổ sung dự án phát huy thế mạnh của y học cổ truyền, dược liệu, bảo đảm an ninh, an toàn thực phẩm tại Chương trình để thể chế hóa đầy đủ Nghị quyết số 72-NQ/TW.
Bên cạnh đó, nghiên cứu ý kiến của Ủy ban về chủ trương đầu tư Chương trình để chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Nghị quyết, nhất là các nội dung về mục tiêu, phạm vi, tổng vốn đầu tư, địa điểm, thời gian thực hiện, cơ chế, giải pháp và chính sách thực hiện Chương trình.
Minh Trang