Luật Công nghệ cao sửa đổi có ảnh hưởng đến thu hút FDI công nghệ cao?

Luật Công nghệ cao sửa đổi có ảnh hưởng đến thu hút FDI công nghệ cao?
3 giờ trướcBài gốc
Luật Công nghệ cao đang được sửa đổi nhằm cụ thể hóa và triển khai thực hiện các chủ trương lớn của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Việc sửa đổi Luật là bước đi cần thiết để thể chế hóa tinh thần của Nghị quyết, qua đó tạo hành lang pháp lý minh bạch, ổn định và hấp dẫn đối với các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ cao.
Nhiều điều khoản trong Dự thảo Luật được cho là sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy các hoạt động đầu tư, sản xuất - kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ cao. Tuy vậy, một số điều khoản lại có thể ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực này, thậm chí cũng sẽ “làm khó” các doanh nghiệp FDI đang có dự án hiện hữu tại Việt Nam, trong khi FDI vào lĩnh vực công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ chiến lược đang được Việt Nam quan tâm thúc đẩy.
Nâng tiêu chí, giảm ưu đãi
Một trong những nội dung quan trọng của Dự thảo Luật Công nghệ cao sửa đổi đó là đưa ra các tiêu chí để xác định và phân loại các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghệ cao, doanh nghiệp công nghệ cao và doanh nghiệp công nghệ chiến lược.
Để đáp ứng xu hướng phát triển hiện nay, các tiêu chí này có thể nói đã được nâng lên, siết chặt hơn. Chẳng hạn, đối với doanh nghiệp công nghệ cao, một trong những tiêu chí phải đáp ứng là phải “sở hữu hoặc đồng sở hữu hoặc tiếp nhận chuyển giao công nghệ lõi ở mức ‘đổi mới và phát triển’, ‘làm chủ và cải tiến’ theo quy định của pháp luật về chuyển giao công nghệ để phát triển công nghệ và sản xuất sản phẩm công nghệ cao”.
Quy định này có thể “làm khó” không ít doanh nghiệp, bao gồm cả các nhà đầu tư nước ngoài, bởi lẽ, cho đến nay, các quy định về “công nghệ lõi”, “đổi mới và phát triển”, hay “làm chủ và cải tiến”… là chưa rõ ràng, chưa có tiêu chí rõ ràng. Xem ra, không dễ để các doanh nghiệp “với” tới, ngay cả với các tập đoàn lớn.
Việt Nam đang đẩy mạnh thu hút FDI trong các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ chiến lược
Hơn thế nữa, Dự thảo Luật cũng đã đưa ra quy định về phân loại doanh nghiệp công nghệ cao. Cụ thể, doanh nghiệp công nghệ cao mức 1 là doanh nghiệp công nghệ cao “có nhà đầu tư trong nước chiếm tỷ lệ phần vốn góp hoặc tỷ lệ sở hữu cổ phần trên 30%” và nhận chuyển giao công nghệ lõi ở mức “đổi mới và phát triển” theo quy định của pháp luật chuyển giao công nghệ. Còn doanh nghiệp công nghệ cao mức 2, là các doanh nghiệp công nghệ cao còn lại.
Xét trên quy định này, hầu hết các doanh nghiệp FDI đang đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Việt Nam đều không đáp ứng được. Lý do là vì, các doanh nghiệp này đều triển khai các dự án 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam.
Câu chuyện nằm ở chỗ, việc phân loại doanh nghiệp công nghệ cao sẽ ảnh hưởng đến các chính sách ưu đãi đầu tư cho các nhà đầu tư. Lâu nay, công nghệ cao là lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư ở mức cao nhất, theo quy định hiện hành. Ví dụ về thuế thu nhập doanh nghiệp, sẽ được miễn 4 năm, giảm 50% trong 9 năm tiếp theo, với mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp được hưởng là 10% trong 15 năm, thậm chí ưu đãi còn cao hơn, thời hạn dài hơn, nếu là trường hợp ưu đãi đầu tư đặc biệt.
Tuy vậy, câu chuyện sẽ có nhiều thay đổi, bởi theo Dự thảo Luật Công nghệ cao sửa đổi, mức ưu đãi này sẽ chỉ được áp dụng với doanh nghiệp công nghệ cao mức 1. Còn nếu là doanh nghiệp công nghệ cao mức 2, mức ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ chỉ còn miễn 2 năm, giảm 50% trong 4 năm và mức thuế suất được hưởng là 15% trong 15 năm.
Việc “nâng tiêu chí, giảm ưu đãi” này chắc chắn sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới việc thu hút FDI của Việt Nam, trong bối cảnh cạnh tranh thu hút FDI trên toàn cầu ngày càng gay gắt. Hơn thế nữa, quy định này cũng sẽ ảnh hưởng đến các nhà đầu tư hiện hữu.
Câu hỏi đặt ra là, liệu các doanh nghiệp FDI hiện hữu còn tiếp tục được hưởng các chính sách ưu đãi đầu tư như lâu nay họ đang được hưởng hay không? Đã nhiều lần, các nhà đầu tư nước ngoài đã lên tiếng về sự thiết nhất quán trong các chính sách ưu đãi đầu tư, khi các chính sách pháp luật thay đổi. Dự thảo Luật Công nghệ cao sửa đổi hiện chưa có các điều khoản chuyển tiếp, do vậy, cũng đã khiến không ít nhà đầu tư như đang “ngồi trên đống lửa”.
Cần sự minh bạch, ổn định của chính sách
Một nội dung quan trọng khác trong việc sửa đổi Luật Công nghệ cao cũng đang khiến các nhà đầu tư nước ngoài băn khoăn. Đó là, Dự thảo Luật bãi bỏ hình thức cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp cao nghệ cao, thay vào đó, áp dụng hình thức doanh nghiệp tự đánh giá, tự xác định theo tiêu chí.
Cách tiếp cận này được cho là giúp giảm thủ tục hành chính, nhưng lại tiềm ẩn rủi ro về cách hiểu, khả năng bị truy xét sau này, và đặc biệt là giảm niềm tin của doanh nghiệp vào sự ổn định chính sách.
Giấy chứng nhận doanh nghiệp cao nghệ cao chính là căn cứ để áp dụng các chính sách ưu đãi đầu tư cho doanh nghiệp. Tuy vậy, trong điều khoản chuyển tiếp, Dự thảo Luật lại chỉ cho phép doanh nghiệp áp dụng đến hết thời hạn Giấy chứng nhận, mà Giấy chứng nhận này thường chỉ có thời hạn 5 năm, không giống như thời hạn của giấy chứng nhận dự án ứng dụng công nghệ cao.
Nếu chỉ áp dụng đến hết thời hạn của Giấy chứng nhận công nghệ cao hiện tại, doanh nghiệp có rủi ro không có cơ sở để tiếp tục được áp dụng ưu đãi đến hết thời hạn ưu đãi đã được cấp ban đầu, trong khi doanh nghiệp vẫn tiếp tục đáp ứng các tiêu chí điều kiện theo quy định.
“Tính ổn định và khả năng dự đoán của chính sách là yếu tố then chốt trong quyết định đầu tư công nghệ cao. Khi Giấy chứng nhận doanh nghiệp công nghệ cao chỉ có thời hạn 5 năm, nhà đầu tư sẽ khó hoạch định chiến lược dài hạn, đặc biệt với các dự án có quy mô lớn, vốn đầu tư hàng tỷ USD và chu kỳ ứng dụng công nghệ dài hơn 10-15 năm”, ông Bùi Ngọc Tuấn, Phó tổng giám đốc Dịch vụ Tư vấn thuế và pháp lý Deloitte Việt Nam, bình luận.
Chính sách ổn định, minh bạch sẽ góp phần giúp Việt Nam thu hút được nhiều hơn nữa dòng vốn FDI trong lĩnh vực công nghệ cao
Theo ông Bùi Ngọc Tuấn, việc Dự thảo Luật đưa ra hình thức doanh nghiệp tự đánh giá cũng sẽ khiến nảy sinh không ít rủi ro. Nhà đầu tư có thể lo ngại rằng, nếu tiêu chí đánh giá không rõ ràng hoặc có sự khác biệt trong cách hiểu, cách đánh giá của cơ quan chức năng, đặc biệt là các tiêu chí xác định về công nghệ cao/sản phẩm công nghệ cao trong quá trình hậu kiểm, họ sẽ không được bảo đảm quyền lợi ưu đãi đã tính toán trong phương án đầu tư.
“Do vậy, thay vì bỏ hoàn toàn, Việt Nam có thể cân nhắc duy trì cơ chế chứng nhận chính thức, nhưng cải tiến quy trình cho phù hợp: kéo dài thời hạn chứng nhận, ứng dụng công nghệ số trong đánh giá, hoặc áp dụng cơ chế rà soát định kỳ theo rủi ro để giảm gánh nặng hành chính. Cách tiếp cận này vừa đảm bảo tính quản lý, vừa giữ được sự tin cậy và ổn định của môi trường đầu tư”, ông Bùi Ngọc Tuấn bày tỏ.
Thực tế, Luật Đầu tư luôn quy định nguyên tắc bảo đảm các ưu đãi đầu tư trong trường hợp thay đổi pháp luật. Theo nguyên tắc đó, các ưu đãi đầu tư cần được đảm bảo theo nguyên tắc không hồi tố. Do vậy, nếu Luật Công nghệ cao được sửa đổi, cần có cơ chế chuyển tiếp để đảm bảo các nhà đầu tư vẫn được hưởng các cơ chế, chính sách ưu đãi lâu nay họ vẫn được hưởng.
Hơn thế nữa, thực tế cho thấy, để tiếp tục thu hút FDI trong lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ chiến lược, cần tiếp tục dành các ưu đãi đầu tư hấp dẫn, vượt trội để thu hút được các “đại bàng” công nghệ.
“Các doanh nghiệp FDI công nghệ cao đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển hệ sinh thái công nghệ cao tại Việt Nam. Họ không chỉ mang đến vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến, mà còn tạo ra môi trường học hỏi, chuyển giao tri thức và lan tỏa năng lực quản trị hiện đại cho các doanh nghiệp trong nước”, ông Bùi Ngọc Tuấn cũng nhấn mạnh như vậy.
Theo ông Tuấn, thông qua hoạt động sản xuất, phát triển nhân lực và hợp tác đào tạo, doanh nghiệp FDI công nghệ cao góp phần thúc đẩy hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao và giúp phát triển các chuỗi cung ứng nội địa.
Thậm chí, không chỉ là ưu đãi bằng thuế, theo ông Bùi Tất Thắng, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nay là Bộ Tài chính), để đẩy mạnh thu hút FDI, nhất là trong lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ chiến lược, cần áp dụng cả các biện pháp hỗ trợ phi thuế.
Thực tế, các quốc gia như Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore, Ấn Độ cũng đều dựa vào thu hút đầu tư các tập đoàn đa quốc gia công nghệ lớn trên thế giới đến để đầu tư sản xuất, nghiên cứu để phát triển nhân lực, hợp tác nghiên cứu, nhận chuyển giao công nghệ để từng bước làm chủ công nghệ, đổi mới và tự phát triển công nghệ trong nước, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng. Từ kinh nghiệm của các quốc gia này, có thể thấy, chính sách thu hút các tập đoàn lớn trong lĩnh vực công nghệ cao cần được thể hiện rõ nét trong chính sách về thu hút công nghệ cao, công nghệ chiến lược.
Điều này càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết, khi Nghị quyết 57-NQ/TW đang được đẩy mạnh thực hiện, nhằm đưa khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo trở thành “chìa khóa” cho sự thịnh vượng của Việt Nam.
Nguyên Đức
Nguồn Đầu Tư : https://baodautu.vn/luat-cong-nghe-cao-sua-doi-co-anh-huong-den-thu-hut-fdi-cong-nghe-cao-d413739.html