Ngay sau khi Quốc hội nghe báo cáo và thẩm tra dự án Luật Phá sản (sửa đổi), các đại biểu Quốc hội tiến hành thảo luận tại tổ, tập trung làm rõ nhiều vấn đề còn ý kiến khác nhau trong dự thảo luật.
Cần điều chỉnh thời hạn, tránh đẩy doanh nghiệp “chết oan”
Đại biểu Nguyễn Quang Huân (TP. Hồ Chí Minh) cho rằng, quy định trong dự thảo Luật về việc doanh nghiệp bị coi là “mất khả năng thanh toán” nếu không trả được nợ trong 6 tháng là thiếu thực tiễn.
Đại biểu Nguyễn Quang Huân - đoàn TP . Hồ Chí Minh
Đại biểu cho biết, trong bối cảnh nhiều doanh nghiệp bị ách tắc dòng tiền do chính sách hoặc đối tác chậm thanh toán, đơn cử như trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, việc áp cứng thời hạn này có thể khiến hàng loạt doanh nghiệp bị đẩy vào diện phá sản không đáng có.
Đại biểu Nguyễn Quang Huân phân tích, trong thực tế có nhiều doanh nghiệp hoàn toàn có khả năng tự tái cấu trúc để phục hồi. Nếu vay vốn từ ngân hàng trong nước, quá trình tái cơ cấu thường được giải quyết khá nhanh, có thể hoàn tất trước mốc 6 tháng. Tuy nhiên, đối với các khoản vay từ ngân hàng nước ngoài, đặc biệt là các tổ chức tài chính lớn, thủ tục rất phức tạp, mất nhiều thời gian, thậm chí kéo dài đến một năm.
“Trong lúc doanh nghiệp và chủ nợ đang cùng thực hiện tái cấu trúc, hai bên đều đồng thuận với phương án phục hồi, thì việc áp dụng cứng quy định ‘quá hạn 6 tháng là tuyên bố phá sản’ sẽ không hợp lý,” ông Huân nêu rõ.
Từ thực tiễn đó, đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo cần rà soát lại Điều 5 về khái niệm “mất khả năng thanh toán” cho phù hợp với Điều 38 quy định về quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu phá sản.
Theo ông, quy định thời hạn 6 tháng chỉ nên áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp chủ động nộp đơn, còn với trường hợp bị cưỡng chế phá sản thì cần linh hoạt hơn để tránh gây áp lực không đáng có.
Các đại biểu đoàn TP. Hồ Chí Minh tại phiên thảo luận ở tổ sáng 23/10
Bên cạnh đó, ông dẫn khoản 2, Điều 29 của dự thảo, quy định thời hạn thực hiện phương án phục hồi tối đa 3 năm là phù hợp và thực tiễn. Tuy nhiên, đối chiếu với Điều 5, việc ấn định 6 tháng để tuyên bố phá sản lại quá gấp gáp, thiếu đồng bộ trong hệ thống quy định. “Doanh nghiệp cần có thời gian phục hồi, thay vì bị tuyên bố phá sản chỉ vì quá hạn kỹ thuật trong quá trình tái cơ cấu,” đại biểu nhấn mạnh.
Đại biểu cũng nhấn mạnh, “phục hồi doanh nghiệp” là một phần trong tiến trình phá sản, vì vậy giữ tên gọi “Luật Phá sản” là đủ bao quát, không cần kéo dài bằng cụm từ “phục hồi và phá sản”, tránh rườm rà, mất tính khái quát.
Ngăn ngừa nguy cơ tẩu tán tài sản và lợi dụng chính sách
Một vấn đề khác được đại biểu Phạm Trọng Nhân - đoàn TP Hồ Chí Minh đưa ra đó là nguy cơ tẩu tán tài sản khi doanh nghiệp được phép chuyển nhượng trong giai đoạn đang xem xét phá sản.
Đại biểu Phạm Trọng Nhân nhấn mạnh sự cần thiết phải quy định cụ thể thời hạn xử lý thủ tục phá sản. Đồng thời đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo (AI) trong giám sát tiến độ, nhằm bảo đảm tính minh bạch, rút ngắn thời gian và hạn chế tiêu cực.
Đại biểu Phạm Trọng Nhân - đoàn TP. Hồ Chí Minh
Theo ông, nếu không có cơ chế giám sát chặt chẽ, quy định này sẽ trở thành “cánh cửa mở” cho hành vi tẩu tán tài sản, gây thiệt hại cho chủ nợ và ảnh hưởng đến trật tự thị trường.
Ngoài ra, trong quá trình xem xét phá sản, nhiều doanh nghiệp vẫn có cơ hội được tiếp quản hoặc phục hồi nếu có nhà đầu tư mới đủ năng lực về vốn và thị trường.
“Trong trường hợp doanh nghiệp không còn khả năng điều hành, nhưng có bên thứ ba muốn tiếp nhận, mua lại để duy trì thương hiệu và năng lực sản xuất, thì nên cho phép thực hiện phương án bán đồng bộ tài sản. Giải pháp này vừa giữ được chuỗi sản xuất, vừa rút ngắn quy trình xử lý, tránh gây biến động lớn cho thị trường” - ông Nhân phân tích.
Từ đó, đại biểu đề nghị Nhà nước cần ban hành cơ chế thống nhất, cho phép liên thông và đồng bộ hóa dữ liệu giữa các đầu mối, tạo nền tảng để áp dụng hiệu quả trí tuệ nhân tạo trong quản lý, rút ngắn thời gian xử lý phá sản, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan và tránh thất thoát tài sản.
Cần ràng buộc trách nhiệm trong phục hồi, tránh lợi dụng kéo dài thủ tục
Liên quan đến quy định phục hồi doanh nghiệp, đại biểu Lê Thanh Phong bày tỏ sự đồng tình cao với quy định trong dự thảo về cơ chế phục hồi doanh nghiệp, coi đây là bước tiến quan trọng nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp vượt qua khó khăn, nhưng phải gắn với thời hạn cụ thể và trách nhiệm rõ ràng của các bên liên quan.
Ông cho rằng, việc quy định thời hạn phục hồi là rất cần thiết để tránh tình trạng lợi dụng thủ tục phục hồi nhằm kéo dài thời gian, trì hoãn nghĩa vụ thanh toán, gây thiệt hại cho chủ nợ và làm méo mó môi trường kinh doanh. Khi doanh nghiệp đã được tạo cơ hội phục hồi với phương án cụ thể, có sự tham gia của cơ quan quản lý nhà nước và sự giám sát của chủ nợ mà vẫn không đạt hiệu quả, thì việc chuyển sang phá sản là cần thiết và hợp lý.
Đại biểu Lê Thanh Phong - đoàn TP. Hồ Chí Minh
“Ngay từ khi lập phương án phục hồi, doanh nghiệp đã được xác định rõ ưu thế, tiềm năng và nghĩa vụ của mình. Nếu vẫn không thực hiện hoặc cố tình trì hoãn, thì đó sẽ là cơ sở để xác định lỗi của doanh nghiệp trong giai đoạn sau, đặc biệt là khi xem xét trách nhiệm hoàn trả các chi phí liên quan,” ông Phong nhấn mạnh.
Đề cập đến vấn đề chi phí phá sản, đại biểu Lê Thanh Phong tán thành với phương án Nhà nước tạm ứng chi phí phá sản trong những trường hợp doanh nghiệp không còn khả năng chi trả. Theo ông, thực tế nhiều vụ việc bị bế tắc do doanh nghiệp không có kinh phí để thực hiện các thủ tục cần thiết, khiến quyền lợi của các bên liên quan bị đình trệ. Việc Nhà nước tạm ứng chi phí là cần thiết để bảo đảm quá trình phá sản được triển khai đúng luật, tránh kéo dài vô thời hạn.
Trong quá trình phục hồi và xử lý tài sản, nếu doanh nghiệp mất toàn bộ tài sản do lỗi của người quản lý hoặc do hành vi cố ý, thì phải chịu trách nhiệm hoàn trả chi phí phá sản cho Nhà nước. “Không thể đánh đồng giữa trường hợp doanh nghiệp thực sự khó khăn với trường hợp vi phạm, tẩu tán hoặc quản lý yếu kém”- đại biểu nêu rõ.
“Việc Nhà nước tạm ứng chi phí phá sản là hợp lý, nhưng phải kèm theo cơ chế buộc cá nhân hoặc tổ chức liên quan hoàn trả nếu để xảy ra mất mát, thất thoát do lỗi chủ quan. Đây là cách vừa hỗ trợ doanh nghiệp, vừa bảo vệ tài sản công và quyền lợi của các bên”- đại biểu Phong cho biết.
Đại biểu Nguyễn Thị Yến - đoàn TP. Hồ Chí Minh
Cùng quan điểm với đại biểu Lê Thanh Phong, đại biểu Nguyễn Thị Yến cho rằng, quy định Nhà nước tạm ứng chi phí phá sản thể hiện tinh thần đồng hành cùng doanh nghiệp, nhưng phải đi đôi với thủ tục rút gọn, đảm bảo “phục hồi nhanh - phá sản gọn”. Bà nhấn mạnh, một doanh nghiệp dù phá sản vẫn có thể tái lập nếu quá trình xử lý minh bạch, công bằng và nhanh chóng.
Làm rõ phạm vi, rút ngắn quy trình, bảo đảm công bằng và hiệu quả
Giải trình tại phiên thảo luận, Chánh Tòa án nhân dân tối cao Lê Minh Trí nhấn mạnh: “Mục tiêu lớn nhất khi sửa luật là khơi thông nguồn lực xã hội đang bị ‘đóng băng’ do thủ tục phá sản kéo dài và thiếu hiệu quả”.
Chánh Tòa án nhân dân tối cao Lê Minh Trí giải trình làm rõ một số vấn đề đại biểu đoàn TP. Hồ Chí Minh nêu
Ông cho biết, Luật Phá sản hiện hành còn nhiều điểm chồng chéo, khiến một vụ việc thường bị kéo dài nhiều năm, trong khi tài sản doanh nghiệp liên tục xuống giá, thậm chí biến mất trước khi được xử lý. Dự thảo lần này đã khắc phục bằng cách hợp nhất đầu mối xử lý, đưa toàn bộ các quan hệ pháp lý liên quan về một cơ quan duy nhất – Tòa án nhân dân, qua đó giảm trùng lặp tố tụng và tăng tính minh bạch.
Về chính sách phục hồi, ông Trí khẳng định: “Nhà nước có thể hỗ trợ giãn nợ, khoanh nợ, tạo điều kiện phục hồi, nhưng không bao cấp nghĩa vụ trả nợ. Quyết định cuối cùng vẫn thuộc về doanh nghiệp và chủ nợ”. Cơ chế này vừa đảm bảo tính nhân văn, vừa tránh lạm dụng chính sách, ngăn chặn tình trạng doanh nghiệp “chây ì” nợ xấu.
Trước các ý kiến trái chiều về tên gọi luật, ông Lê Minh Trí cho rằng, việc bổ sung từ “phục hồi” là biểu tượng của tinh thần cải cách và nhân văn trong chính sách kinh tế. Tuy nhiên, ông khẳng định dù mang tên nào, tinh thần của Luật vẫn là ưu tiên phục hồi, nhưng sẵn sàng tuyên bố phá sản nếu doanh nghiệp không đáp ứng điều kiện.Việc rút gọn quy trình, chuyển quyền “kháng nghị” của Viện kiểm sát thành “kiến nghị” của Chánh án cấp trên, cũng nhằm mục tiêu giảm tầng nấc thủ tục, tăng tốc độ xử lý mà vẫn giữ nguyên tính giám sát tư pháp khi cần thiết.
Thu Hường